Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

ĐỀ TÀI PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ KHẨU, HỘ TỊCH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI PHƯỜNG DUY TÂN - KON TUM


ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ KHẨU, HỘ TỊCH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI PHƯỜNG DUY TÂN - KON TUM

MỞ ĐẦU

Quản lý dân cư là một trong những lĩnh vực trọng yếu của nền hành chính mà mọi quốc gia, dù ở bất kỳ chế độ chính trị với tŕnh độ phát triển nào cũng đều quan tâm. Một Chính phủ hoạt động hiệu quả không thể không nắm chắc và cập nhật thường xuyên các thông tin, dữ liệu về dân cư có được từ hoạt động quản lý hộ khẩu, hộ tịch. Hộ khẩu, hộ tịch là một trong những vấn đề trung tâm của hoạt động quản lý nhà nước về dân cư. Những sự kiện hộ khẩu, hộ tịch là những vấn đề nóng, va đập, cọ xát hàng ngày hàng giờ, gắn liền với đời sống của người dân. Từ thời phong kiến cho đến nay, quản lý hộ khẩu, hộ tịch luôn được coi trọng như một công cụ của nhà nước để bảo vệ quyền nhân thân và hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội. Quản lý hộ khẩu, hộ tịch là những dữ liệu cần có trong mọi bài toán hoạch định chính sách phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng; mặt khác, nó là hoạt động thể hiện tập trung, sinh động mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Để quản lý dân cư, mỗi quốc gia có những phương thức quản lý khác nhau nhưng đều hướng đến mục đích quản lý một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác các dữ liệu về đặc điểm nhân thân cơ bản của từng công dân. Ở Việt Nam, quản lý hộ khẩu, hộ tịch được xác định là khâu trung tâm của toàn bộ hoạt động quản lý dân cư. Với những giá trị tiềm tàng như vậy, công tác quản lý hộ tịch đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của nó trong tiến trình phát triển của xã hội.
Thông qua nhiều văn bản pháp lý khác nhau, Nhà nước đã thực hiện việc quản lý hộ khẩu, hộ tịch trong từng giai đoạn với những phương pháp và cách thức khác nhau đều đã thể hiện rõ quan điểm, mục đích và những quy định cụ thể của Nhà nước ta về đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch. Tuy nhiên, do hạn chế trong quá trình nhận thức ở từng thời điểm, Nhà nước mà trực tiếp là Chính phủ chưa bao quát hết và dự liệu được tất cả mọi vấn đề nảy sinh trong thực tiễn quản lý hộ khẩu, hộ tịch cũng như xu hướng vận động của các vấn đề hộ khẩu, hộ tịch. Nhiều sự kiện hộ khẩu, hộ tịch phức tạp phát sinh ở cơ sở không thể hoặc không được giải quyết do pháp luật chưa quy định. Những quy định của pháp luật cũng chưa bám sát thực tiễn hoàn toàn, còn bộc lộ nhiều “kẽ hở”, quy định đơn giản, sơ sài, không thống nhất, gây phiền hà cho người dân cũng như khó khăn cho chính những cán bộ, công chức thừa hành khi áp dụng pháp luật.
Nhìn vào thực trạng quản lý hộ khẩu, hộ tịch ở Việt Nam và đặt trong sự so sánh với các quốc gia trong khu vực, chúng ta không thể không lo ngại trước những bất cập của thực tiễn quản lý hộ khẩu, hộ tịch cả về nhận thức và hành động, cả về hành lang pháp lý và năng lực, trình độ quản lý. Mặc dù hoạt động quản lý hộ khẩu, hộ tịch đã có quá trình phát triển hơn nữa thế kỷ và đă có sự vận động tích cực trong những năm gần đây nhưng việc quản lý “đầy đủ, chính xác, kịp thời” các thông tin hộ khẩu, hộ tịch vẫn là mục tiêu đầy khó khăn đặt ra đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.
Với thực trạng đó và những đòi hỏi của tình hình mới, để luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về hộ khẩu, hộ tịch, bản thân xin lựa chọn đề tài “Pháp luật Quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch ở Phường Duy Tân - Kon Tum” làm luận văn tốt nghiệp.











CHƯƠNG I
 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ HỘ KHẨU, HỘ TỊCH
1.1. Một số khái niệm cơ bản:
1.1.1. Khái niệm về hộ khẩu:
            Ở nhiều quốc gia, việc quản lý cư trú của công dân về cơ bản nhằm vào ba mục tiêu: quản lý biến động số lượng, chất lượng dân số; kiểm soát và hạn chế sự tập trung quá mức dân cư vào một vùng hoặc khu vực nào đó; hạn chế đến thấp nhất các tiêu cực xã hội do biến động dân cư tạo ra. Các biện pháp thường uyển chuyển, mềm dẻo, không thuần túy hành chính và không đối đầu trực tiếp với các qui luật kinh tế - xã hội tạo nên các dòng di dân và dịch chuyển lao động.
Chính ví vậy, hộ khẩu là quá trình cơ quan Công an dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước để tiến hành đăng ký, quản lý hoạt động cư trú của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định phục vụ cho công tác quản lý xã hội của Nhà nước; công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
1.1.2. Khái niệm về hộ tịch:
Từ trước đến nay, vẫn tồn tại khá nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “Hộ tịch”. Có quan niệm cho rằng: Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh, khai tử. Quan niệm thứ hai lại cho rằng, việc ghi chép vào sổ sách không phải là hộ tịch mà bản thân các sự kiện liên quan đến tình trạng nhân thân của con người mới là hộ tịch. Có thể xem cách hiểu thứ hai là cách hiểu khá thấu đáo và toàn diện, được khoa học công nhận và được quy định khá rõ ràng trong văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch thì: Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết.
Có thể xem những sự kiện về hộ tịch rất đa dạng. Nếu theo quan niệm cũ trước đây, hộ tịch chủ yếu bao gồm các sự kiện về sinh, tử, kết hôn thì theo quy định hiện nay của pháp luật, hộ tịch bao gồm 9 sự kiện cơ bản như: sinh; tử; kết hôn; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc. Các sự kiện hộ tịch được xem là các sự kiện cơ bản, bởi các sự kiện này có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân.
  Theo điều 1, Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 (Nghị định này thay thế cho NĐ số 83 ngày 10/10/1998) quy định:Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định t́nh trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.
1.1.3. Quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
      * Khái niệm quản lý nhà nước:
            Khái niệm quản lý nhà nước theo nghĩa rộng : Là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực nhà nước trên các phương diện lập pháp hành pháp và tư pháp. Theo cách hiểu này, quản lý nhà nước được đặt trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Theo nghĩa hẹp, Quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ... Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chánh nhà nước.
            * Đặc điểm quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
            Hộ khẩu, hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết; việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch là việc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm xác định các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ khẩu, hộ tịch; xác định lại dân tộc; xác định lại giới tính, xác định nơi cư trú. Đồng thời, căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi vào sổ hộ khẩu, hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt việc nuôi con nuôi, thay đổi nơi ở. Giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân theo quy định của pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ khẩu hộ tịch của cá nhân đó.
1.2. Vai trò quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
            Quản lý hộ khẩu, hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ khẩu, hộ tịch, trên cơ sở đó bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình. Đồng thời, góp phần xây dựng chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng, dân số và kế hoạch hoá gia đình. Mọi sự kiện hộ khẩu, hộ tịch phải được đăng ký kịp thời chính xác, mỗi một sự kiện hộ khẩu, hộ tịch chỉ được đăng ký ở một nơi theo đúng thẩm quyền quy định. Cơ quan quản lý hộ khẩu, hộ tịch cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo đối với cơ quan quản lý hộ khẩu, hộ tịch cấp dưới, trường hợp phát hiện thấy sai phạm phải chấn chỉnh và xử lý kịp thời.
Khi tham gia vào các quan hệ xã hội như quyền được kết hôn khi công dân đủ tuối theo quy định, quyền được giám hộ, quyền được thừa kế....đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình.
Cũng trên cơ sở theo dõi biến động về hộ khẩu, hộ tịch mà các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng chính sách phù hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính nguồn nhân lực từ đó có phân tích đánh giá cụ thể làm cơ sở để hoạch định các chính sách về phát triển kinh tế, văn hoá-xã hội, thể dục thể thao, xây dựng cơ sở y tế, trường học, bố trí giáo viên... chăm sóc sức khoẻ trong nhân dân, đảm bảo cân bằng giới tính phục vụ an ninh quốc phòng, chăm sóc sức khoẻ trong nhân dân ....


1.3. Pháp luật quản lý  nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
1.3.1. Khái niệm pháp luật quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
            Quản lý hộ khẩu, hộ tịch là một trong những hoạt động của quản lý Nhà nước, thông qua việc quản lý hộ khẩu, hộ tịch. Nhà nước nắm được tình hình biến động dân cư và sự biến động của xã hội, giúp Nhà nước có cơ sở khoa học để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội và là cơ sở để hoạch định chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
1.3.2 Nội dung pháp luật quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
* Nội dung công tác đăng ký quản lý hộ khẩu:
            Theo quy định của Nghị định số 51/CP ngày 10/05/1997 và Thông tư 06/TT-BNV của Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an) ngày 20/6/1997 việc thực hiện đăng ký, quản lý hộ khẩu, bao gồm 5 nội dung cơ bản sau:
- Đăng ký, quản lý thường trú.
- Đăng ký, quản lý tạm trú.
- Đăng ký, quản lý tạm vắng.
- Đăng ký bổ sung điều chỉnh những thay đổi khác về hộ khẩu, nhân khẩu.
- Kiểm tra xử lý vi phạm về đăng ký, quản lý hộ khẩu.
            Nhưng hai nội dung (đăng ký bổ sung điều chỉnh những thay đổi khác về hộ khẩu nhân khẩu; kiểm tra xử lý vi phạm về đăng ký, quản lý hộ khẩu) thực chất đây là biện pháp cụ thể để thực hiện việc đăng ký và đăng ký, quản lý hộ khẩu, nhân khẩu. Do vậy, nội dung chính của đăng ký, quản lý hộ khẩu, nhân khẩu tập trung vào 3 vấn đề cơ bản là:
            Thứ nhất: Đăng ký, quản lý hộ khẩu thường trú là dựa vào các quy định cụ thể về việc đăng ký, đăng ký, quản lý hộ khẩu để đăng ký ghi nhận vào sổ hộ khẩu và áp dụng các biện pháp để quản lý đối với những hộ, những nhân khẩu thường xuyên cư trú trên một địa bàn nhất định theo đơn vị hành chính.
Công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu thường trú là một trong những nội dung quan trọn của công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu, nhân khẩu nhằm giúp cho việc nắm vững số người hiện cư trú có mặt tại địa bàn. Đối với hộ khẩu phải nắm vững: Tổng số hộ, nhân khẩu, tình hình đặc điểm, sự di biến động và những vấn đề thay đổi về hộ khẩu; Đặc điểm chỉ tiết những nhân khẩu có trong hộ; số hộ đã được đăng ký, chưa đăng ký, lý do và biện pháp giải quyết từng trường hợp; đi sâu nắm các hộ có vấn đề phức tạp; Thái độ chấp hành chính sách, pháp luật, các quy định về hộ khẩu. Còn đối với nhân khẩu cần nắm vững 4 nội dung: Lai lịch bản thân; mối quan hệ gia đình; nghề nghiệp, đời sống kinh tế; thái độ chính trị hiện tại với từng đối tượng. Với từng đối tượng cần quản lý nắm vững yêu cầu 4 biết: Biết mặt, biết tên, tuổi, đặc điểm tâm lý, căn cước nhận dạng, nơi ở, nơi làm việc của đối tượng; biết điều kiện hoàn cảnh kinh tế của bản thân và gia đình đối tượng; biết thái độ cải tạo của đối tượng. Đây là cơ sở để các cơ quan thống kê, tổng hợp số liệu về dân số, tình hình đặc điểm dân cư, cung cấp cho cơ quan chức năng có liên quan nghiên cứu, sử dụng trong công tácquản lý xã hội của Nhà nước. Đảm bảo được quyền tự do cư trú hợp pháp của công dân, phục vụ lợi ích chính đáng và nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo pháp luật, quản lý hộ khẩu, nhân khẩu thường trú còn giúp lực lượng Công an nắm chắc từng người, phân biệt người tốt kẻ xấu, nắm được đối tượng chính trị, hình sự trong diện quản lý nghiệp vụ phục vụ công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Thủ tục đăng ký thường trú:
 . Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu (Bản chính)
 . Bản khai nhân khẩu (Bản chính)    
 . Giấy chuyển hộ khẩu (đối với các trường hợp: Chuyển đi ngoài phạm vi xã, thị trấn của huyện thuộc tỉnh; Chuyển đi ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã của thành phố trực thuộc trung ương; thị xã, thành phố thuộc tỉnh) (Bản chính)             
 . Giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp theo quy định tại Điều 5 Nghị định số l07/2007/NĐ-CP (trừ trường hợp được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình) (Bản chính hoặc bản sao)          
 . Đối với trường hợp chỗ ở hợp pháp là nhà ở do thuê, mượn, ở nhờ của của cá nhân hoặc được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình thì người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở của mình hoặc người có sổ hộ khẩu phải ghi rõ ý kiến đồng ý cho đăng ký thường trú vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu, ký, ghi rõ họ, tên và ngày, tháng, năm (Bản chính)  
 . Đối với trường hợp có quan hệ gia đình là ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh, chị, em ruột, cháu ruột quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật Cư trú chuyển đến ở với nhau thì không phải xuất trình giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp, nhưng phải xuất trình giấy tờ chứng minh mối quan hệ nêu trên để làm căn cứ ghi vào sổ hộ khẩu (Bản chính).        
 . Người chưa thành niên nếu không đăng ký thường trú cùng cha, mẹ; cha hoặc mẹ mà đăng ký thường trú cùng với người khác thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ; cha hoặc mẹ (Bản chính).             
 . Người sống độc thân được cơ quan, tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc tập trung khi đăng ký thường trú thì cơ quan, tổ chức đó có văn bản đề nghị. Trường hợp được cá nhân chăm sóc, nuôi dưỡng tập trung thì cá nhân đó có văn bản đề nghị có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Văn bản đề nghị cần nêu rõ các thông tin cơ bản của từng người như sau: họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, quê quán, dân tộc, tôn giáo, số chứng minh nhân dân, nơi thường trú trước khi chuyển đến, địa chỉ chỗ ở hiện nay. (Bản chính).             
 . Trẻ em khi đăng ký thường trú phải có giấy khai sinh (Bản chính hoặc bản sao).     
 . Người sống tại cơ sở tôn giáo khi đăng ký thường trú phải có giấy tờ chứng minh là chức sắc tôn giáo, nhà tu hành hoặc người khác chuyên hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. (Bản chính).           
 . Người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về nước sinh sống có một trong các giấy tờ sau:
- Hộ chiếu Việt Nam hoặc giấy tờ thay hộ chiếu Việt Nam có đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh của lực lượng kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu;
- Giấy tờ chứng minh còn quốc tịch Việt Nam do cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cấp, kèm theo giấy tờ chứng minh được về Việt Nam thường trú của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, kèm theo giấy tờ chứng minh được về nước thường trú của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Thứ hai: Đăng ký, quản lý tạm trú là dựa vào các quy định về đăng ký, quản lý hộ khẩu, nhân khẩu để đăng ký và quản lý những nhân khẩu thường trú ở một nơi nhưng do yêu cầu công tác, thăm viếng, chữa bệnh... họ đến ở lại một địa phương khác trong thời gian nhất định ngoài đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
            Đăng ký quản lý nhân khẩu tạm trú là một nơi dung quan trọng trong công tác, quản lý hộ khẩu, nhân khẩu. Đây chính là quá trình tiến hành đăng ký, quản lý đối với những người từ 15 tuổi trở lên, không phải là nhân khẩu thường trú trong phạm vi phường, xã, thị trấn. Họ là những người từ địa phương khác chuyển đến công tác, học tập, du lịch, chữa bệnh, tìm kiếm việc làm tại địa phương... trong thời gian nhất định và có ở lại qua đêm. Với quy định như vậy nên những nhân khẩu tạm trú sẽ đăng ký tạm trú với hai hình thức: Đăng ký tạm trú cho các nhân khẩu có tính vãng lai và đăng ký tạm trú có thời hạn. Tiến hành nội dung này là nhằm phát hiện được những biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội, những đối tượng có lệnh truy nã, đối tượng đang lẩn trốn, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật khác. Đồng thời là điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ trong việc chấp hành các hoạt động về cư trú.
          Về thủ tục đăng ký tạm trú, Điều 30 Luật Cư trú năm 2006 quy định như sau:
             Đăng ký tạm trú là việc công dân đăng ký nơi tạm trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho họ.
            Người đang sinh sống, làm việc, lao động, học tập tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn nhưng không thuộc trường hợp được đăng ký thường trú tại địa phương đó thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày đến phải đăng ký tạm trú tại Công an xã, phường, thị trấn.
             Người đến đăng ký tạm trú phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn nơi người đó đã đăng ký thường trú; giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở đó; nộp phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu, bản khai nhân khẩu; trường hợp chỗ ở hợp pháp là nhà do thuê, mượn hoặc ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản.
             Trưởng Công an xã, phường, thị trấn trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này phải cấp sổ tạm trú theo mẫu quy định của Bộ Công an.
            Sổ tạm trú được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký tạm trú, có giá trị xác định nơi tạm trú của công dân và không xác định thời hạn.
            Việc điều chỉnh thay đổi về sổ tạm trú được thực hiện theo quy định tại Điều 29 của Luật này. Sổ tạm trú bị hư hỏng thì được đổi, bị mất thì được cấp lại. Trường hợp đến tạm trú tại xã, phường, thị trấn khác thì phải đăng ký lại.
            Trường hợp người đã đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm việc, lao động, học tập từ sáu tháng trở lên tại địa phương đã đăng ký tạm trú thì cơ quan đã cấp sổ tạm trú phải xoá tên người đó trong sổ đăng ký tạm trú.”
            Thủ tục này được quy định cụ thể hơn tại Điều 16 Thông tư số 52/2010/TT-BCA ngày 30/11/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cư trú, Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25/6/2007 và Nghị định số 56/2010/NĐ-CP ngày 24/5/2010 về cư trú, theo đó:
            Hồ sơ đăng ký tạm trú, bao gồm:
             Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu; bản khai nhân khẩu.
            Giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 107/2007/NĐ-CP (trừ trường hợp được chủ hộ có sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú đồng ý cho đăng ký tạm trú thì không cần xuất trình giấy tờ về chỗ ở). Đối với trường hợp thuê, mượn, ở nhờ chỗ ở hợp pháp thì đăng ký tạm trú phải có ý kiến đồng ý đăng ký tạm trú của người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu, ký, ghi rõ họ tên và ngày, tháng, năm.
Xuất trình chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn nơi người đó đăng ký thường trú.
            Người tạm trú được chủ hộ đồng ý cho nhập vào sổ tạm trú hoặc chủ hộ đồng ý cho đăng ký tạm trú tại nơi thường trú của chủ hộ thì việc đồng ý phải được ghi vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu, ký, ghi rõ họ tên và ngày, tháng, năm.
            Người đăng ký tạm trú nộp hồ sơ đăng ký tạm trú tại Công an xã, phường, thị trấn”.
            Về giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp, bạn có thể tham khảo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25/6/2007 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Nghị định 56/2010/NĐ-CP ngày 24/5/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú, cụ thể là:
            Giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp để đăng ký tạm trú là một trong các giấy tờ sau đây:
            Một trong những giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp là hợp đồng cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở, nhà khác của cá nhân thì hợp đồng đó không cần công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã;
            Văn bản cam kết của công dân về việc có chỗ ở thuộc quyền sử dụng của mình và không có tranh chấp về quyền sử dụng nếu không có một trong các giấy tờ quy định tại điểm a khoản này”.      
Thứ ba: Quản lý tạm vắng là dựa vào các quy định về đăng ký, quản lý hộ khẩu, để quản lý đối với những nhân khẩu thường trú của địa phương mình nhưng vì một lý do vì việc riêng nào đó họ đi vắng khỏi quận, thành phố, thị xã, huyện nơi thường trú của mình.
Quản lý tạm vắng cũng là một trong ba nội dung cơ bản, quan trọng của công tác, quản lý hộ khẩu, nhân khẩu. Đây là quá trình đăng ký, quản lý đối với số nhân khẩu từ 15 tuổi trở lên có việc riêng đi vắng qua đêm khỏi quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi đăng ký hộ khẩu thường trú. Tiến hành nội dung này không chỉ giúp cơ quan Công an nắm chắc tình hình từng hộ, từng người ở địa bàn kể cả khi họ không hoạt động tại địa bàn, kịp thời thu thập các tài liệu cần thiết phục vụ cho các yêu cầu nghiệp vụ. Đăng ký, quản lý tạm vắng thường gắn liền với hoạt động đăng ký, quản lý tạm trú, nó được áp dụng với cùng một đối tượng cụ thể nhưng nội dung, yêu cầu đăng ký, quản lý có sự khác nhau và có mục đích chung là đều nhằm quản lý chặt chẽ hoạt động của con người ở các khu vực địa bàn.
Thủ tục khai báo tạm vắng: (Khoản 3,4 Điều 32 Luật Cư trú)
 Ng­ười thuộc diện khai báo tạm vắng nêu trên phải khai báo tạm vắng tại Công an xã, ph­ường, thị trấn nơi người đó cư trú. Khi đến khai báo tạm vắng phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân và ghi vào phiếu khai báo tạm vắng.
        Công an xã, ph­ường, thị trấn có trách nhiệm hướng dẫn nội dung khai báo, kiểm tra nội dung khai báo, ký xác nhận vào phần phiếu cấp cho ng­ười khai báo tạm vắng
            Quy định về thủ tục khai báo tạm vắng được cụ thể hóa tại Thông tư 52/2010/TT-BCA như sau:
 Người khai báo tạm vắng phải đến trụ sở Công an xã, phường, thị trấn nơi cư trú để làm thủ tục khai báo tạm vắng.
Trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị của công dân, Công an xã, phường, thị trấn nơi công dân cư trú phải cấp phiếu khai báo tạm vắng cho công dân (trường hợp đặc biệt thì được phép kéo dài thời gian giải quyết, nhưng tối đa không quá 02 ngày làm việc).


* Nội dung quản lý và đăng ký hộ tịch:
- Đăng ký khai sinh:
Đăng ký khai sinh là biện pháp đầu tiên của quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch. Thông qua quản lý hành chính trong lĩnh vực đăng ký khai sinh đã giúp cho Nhà nước theo dõi được sự biến động tự nhiên của dân số, từ đó, đề ra các chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước cũng như trong từng địa phương; mặt khác đăng ký khai sinh một cách đầy đủ, chính xác là bảo vệ quyền của trẻ em được đăng ký khai sinh ngay từ khi sinh ra theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Thẩm quyền đăng ký khai sinh:
Uỷ ban nhân dân xă, phường, thị trấn (sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân cấp xã), nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi được thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người đang tạm thời nuôi dưỡng hoặc nơi có trụ sở của tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em đó.
+ Thời hạn đi khai sinh và trách nhiệm khai sinh
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em.
+ Thủ tục đăng ký khai sinh
-  Người đi đăng ký khai sinh phải nộp Giấy chứng sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng kư kết hôn).
          Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
          Trong trường hợp cán bộ Tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.
Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi khai sinh một bản chính Giấy khai sinh. Bản sao Giấy khai sinh được cấp theo yêu cầu của người đi khai sinh.
Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh.
+ Thẩm quyền, thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn
Những trường hợp sinh chưa được đăng ký trong thời hạn theo đúng quy định của pháp luật (60 ngày) thì phải đăng kýtheo thủ tục quá hạn. Người có trách nhiệm đi đăng ký khai sinh mà không theo đúng thời hạn đã quy định mà không có lý do chính đáng sẽ bị xử phạt hành chính chính theo quy định của pháp luật.
- Thẩm quyền đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn
Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh ban đầu thực hiện việc đăng ký khai sinh quá hạn.
Trong trường hợp người đã thành niên đăng ký khai sinh quá hạn cho mình, thì có thể đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh ban đầu hoặc tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó cư trú.
- Thủ tục đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn
          Người đi đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn phải nộp các giấy tờ theo quy định như trường hợp đăng kư khai sinh lần đầu tiên.
          Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi đăng kư một bản chính Giấy khai sinh. Trong cột ghi chú của Sổ đăng kư khai sinh phải ghi rõ “Đăng ký quá hạn” Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn xác minh không quá 5 ngày.
Khi đăng ký khai sinh quá hạn cho người đă có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ hộ khẩu, Giấy chứng minh nhân dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, mà trong các hồ sơ, giấy tờ đó đă có sự thống nhất về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán, thì đăng ký đúng theo nội dung đó. Trường hợp họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán trong các hồ sơ, giấy tờ nói trên của người đó không thống nhất thì đăng ký theo hồ sơ, giấy tờ được lập đầu tiên. Trong trường hợp địa danh đă có thay đổi, thì phần khai về quê quán được ghi theo địa danh hiện tại.
+ Thẩm quyền, thủ tục đăng ký lại khai sinh
Những trường hợp sinh trước đây đă được đăng ký nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đă bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được, thì được đăng ký lại để tạo điều kiện cho đương sự khi có nhu cầu sử dụng Giấy khai sinh và đáp ứng yêu cầu quản lý của nhà nước.
Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi đương sự cư trú hoặc nơi đă đăng ký việc sinh trước đây thực hiện việc đăng ký lại.
Khi đăng ký lại việc sinh nếu người đi đăng ký lại xuất trình bản sao giấy tờ đã cấp hợp lệ trước đây, thì nội dung khai sinh được ghi theo nội dung của bản sao giấy tờ hộ tịch đó.
Trường hợp đăng ký lại việc sinh cho người không có bản sao Giấy khai sinh đã cấp trước đây, nhưng đã có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ hộ khẩu, Giấy chứng minh nhân dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, mà trong các hồ sơ giấy tờ đó đă có sự thống nhất về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán, thì đăng ký đúng theo nội dung đó. Trường hợp họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán trong các hồ sơ, giấy tờ nói trên của người đó không thống nhất thì đăng ký theo hồ sơ, giấy tờ được lập đầu tiên. Trong trường hợp địa danh đă có thay đổi, th́ phần khai về quê quán được ghi theo địa danh hiện tại.
* Đăng ký  kết hôn
Quyền kết hôn là một trong những quyền đầu tiên trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của mỗi con người. Từ đó phát sinh ra những quan hệ pháp lý giữa vợ, chồng, cha, mẹ, con, giữa ông bà nội, ngoại và cháu.
Từ xưa đến nay, quan hệ hôn nhân thường chỉ phát sinh trong phạm vi làng xã hoặc quận, huyện liền kề hoặc trong phạm vi của một quốc gia. Ngày nay, do nhu cầu giao lưu kinh tế, xã hội nên các quan hệ hôn nhân đã vượt ra ngoài phạm vi địa hạt của một xã, huyện, tỉnh, thậm chí là quốc gia. Do vậy, nếu nghiên cứu đầy đủ về chế độ hôn nhân, phải nghiên cứu các mối quan hệ hôn nhân không những phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn phải nghiên cứu cả những quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
+ Thẩm quyền đăng ký kết hôn
Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng kư kết hôn.
Trong trường hợp cả hai bên nam, nữ là công dân Việt Nam đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, đă cắt hộ khẩu thường trú ở trong nước, thì việc đăng ký kết hôn được thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú trước khi xuất cảnh của một trong hai bên nam, nữ.
+ Thủ tục đăng ký kết hôn
Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất tŕnh Giấy chứng minh nhân dân.
Trong trường hợp một người cư trú tại xă, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã phường, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, th́ phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.
Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng hôn nhân.
Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc bằng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại chương V của Nghị định 158/2005/NĐ-CP.
Việc xác nhận t́nh trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận.
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ. Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
 Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã yêu cầu hai bên cho biết  muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn được cấp theo yêu cầu của vợ, chồng.
*   Đăng ký khai tử
Đăng ký khai tử là một trong những lĩnh vực quản lý của nhà nước ta về đăng ký hộ tịch nhằm theo dõi sự biến động tự nhiên dân số. Đăng ký khai tử là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện chết của một người và ghi vào Sổ đăng ký khai tử. Trên cơ sở đó, chấm dứt quan hệ của người đó đối với gia đình, xã hội đồng thời phát sinh quyền và nghĩa vụ của thân nhân người chết.
Mục đích của việc đăng ký khai tử là nhằm giúp nhà nước theo dõi sự biến động tự nhiên về dân số, tạo cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình.
+ Thẩm quyền đăng ký khai tử
Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện việc đăng ký khai tử.
Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng của người chết, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó chết thực hiện việc đăng kýkhai tử.
+ Thời hạn đi khai tử và trách nhiệm khai tử
Thời hạn đi khai tử là 15 ngày, kể từ ngày chết.
Thân nhân của người chết có trách nhiệm đi khai tử; nếu người chết không có thân nhân, thì chủ nhà hoặc người có trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, nơi người đó cư trú hoặc công tác trước khi chết đi khai tử.
+ Thủ tục đăng ký khai tử
- Người đi khai tử phải nộp Giấy báo tử hoặc giấy tờ thay cho Giấy báo tử theo quy định tại Điều 22 của Nghị định này.
- Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký khai tử và Giấy chứng tử, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi khai tử một bản chính Giấy chứng tử. Bản sao Giấy chứng tử được cấp theo yêu cầu của người đi khai tử.
+ Thẩm quyền, thủ tục đăng kư khai tử quá hạn:
- Thẩm quyền đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn
Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai tử theo quy định của Nghị định 158 thực hiện việc đăng ký khai tử quá hạn.
-  Thủ tục đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn
          Người đi đăng ký khai tử quá hạn phải nộp các giấy tờ theo quy định.
          Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký khai tử và bản chính Giấy chứng tử. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi đăng ký một bản chính Giấy chứng tử. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai tử phải ghi rõ “Đăng ký quá hạn” Trường hợp cần phải xác minh, th́ thời hạn xác minh không quá 5 ngày.
+ Thẩm quyền, thủ tục đăng ký lại việc tử:
- Thẩm quyền đăng kư lại việc tử:
Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi đương sự cư trú hoặc nơi đă đăng ký việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi trước đây thực hiện việc đăng ký lại.
- Thủ tục đăng ký lại việc tử:
Người có yêu cầu đăng ký lại việc tử phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định).
Trong trường hợp đăng ký lại tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, không phải nơi đương sự đã đăng ký hộ tịch trước đây, thì Tờ khai phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký hộ tịch về việc đã đăng ký; trừ trường hợp đương sự xuất trình được bản sao giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch đã cấp hợp lệ trước đây.
          Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ hộ tịch theo từng loại việc và bản chính Giấy khai sinh, Giấy chứng tử, Giấy chứng nhận kết hôn hoặc Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi đăng ký một bản chính giấy tờ hộ tịch theo từng loại việc. Các giấy tờ hộ tịch cũ liên quan đến sự kiện hộ tịch đăng ký lại (nếu có) được thu hồi và lưu hồ sơ. Trong cột ghi chú của sổ hộ tịch và dưới tiêu đề của bản chính giấy tờ hộ tịch phải ghi rõ “Đăng ký lại”. Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Đăng ký nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là một việc làm nhân đạo mang tính xă hội cao, mục đích của việc đăng ký nhận nuôi con nuôi là nhằm đem lại lợi ích tốt nhất, tìm mái ấm gia đình cho trẻ em khi trẻ em đó không nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng từ cha mẹ, họ hàng hay người thân thích. Việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó t́nh cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm quyền được chăm sóc, nuôi dạy cho người con nuôi chưa thành niên. Việc nuôi con nuôi chỉ có giá trị pháp lý khi đă được đăng ký lại tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mọi h́nh thức nuôi con nuôi trên thực tế không được pháp luật công nhận.
+ Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi
Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi.
Trong trường hợp trẻ bị bỏ rơi được nhận làm con nuôi, th́ Uỷ ban nhân dân cấp xă, nơi lập biên bản xác nhận t́nh trạng trẻ bị bỏ rơi đăng ký việc nuôi con nuôi; nếu trẻ em đó đă được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng đăng ký việc nuôi con nuôi.
+ Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi
Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi gồm có:
-   Giấy thoả thuận về việc cho và nhận con nuôi (theo mẫu quy định).
-   Bản sao Giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi.
1.3.3 Hình thức pháp luật quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
* Hộ khẩu:
            . Luật Cư trú năm 2006
Các văn bản hướng dẫn thi hành

*Hộ tịch:
. Luật quốc tịch năm 2009
Các văn bản hướng dẫn thi hành
     

     

          

          

          

          

          

     

          

          

        

     

          

1.4. Sự hình thành và phát triển của pháp luật quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
* Hộ khẩu: Quản lý hộ khẩu, được xác định là một trong những nội dung cơ bản của quản lý hành chính về ANTT. Đây thực chất là quá trình quản lý hoạt động cư trú của con người. Nó có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu. Hoạt động quản lý hộ khẩu không chỉ có ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới cũng tiến hành, chỉ khác nhau về mục đích, hình thức, biện pháp, mức độ và phạm vi áp dụng. Bản thân nó thực sự là một vấn đề quan trọng và cần thiết đối với mỗi quốc gia, trong việc quản lý hoạt động của con người.
Quản lý hộ khẩu được Nhà nước ta tiến hành từ rất sớm. Ngay sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954), công tác quản lý hộ khẩu được Nhà nước ta quan tâm, nghiên cứu, tổ chức chỉ đạo nhằm từng bước góp phần củng cố chính quyền cách mạng, tăng cường việc quản lý xã hội, ổn định tình hình ANTT. Đầu năm 1955, công tác quản lý hộ khẩu được tiến hành thí điểm ở một số nơi như Thành phố Nam Định, Thị xã Bắc Ninh, Thị xã Sơn Tây, sau mở rộng thêm các địa bàn Hà Nội, Thái Nguyên, Hà Đông. Đầu năm 1956 được mở thêm ở các địa bàn khác: Hải Phòng, Đồng Hới, Hà Tĩnh, Hưng Yên, Ninh Giang, Việt Trì...
Công tác đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch cơ bản hoàn thành trong phạm vi toàn miền Bắc năm 1959. Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, công tác đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch   tiến hành trong cả nước kể từ năm 1976.
Những năm đầu khi hoà bình lập lại (1954), Nhà nước ta chưa ban hành Điều lệ đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch   chính thức mà chỉ đưa ra các quy định tạm thời do Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố từng địa phương công bố. Năm 1957, bản Điều lệ tạm thời về đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch  được chỉnh lý, bổ sung sửa đổi ban hành. Điều lệ đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch  đầu tiên được ban hành kèm theo Nghị định 104/CP ngày 27/06/1964 của Hội đồng Chính phủ. Đây là văn bản chính thống do Nhà nước ta ban hành quy định về việc đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch  và được thực hiện chung, thống nhất trên phạm vi toàn miền Bắc. Trong điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mĩ, công tác quản lý xã hội của ta còn nhiều khó khăn, cuộc điều tra dân số không có điều kiện thực hiện. Cho nên ngày 29/02/1968, Hội đồng Chính phủ ra tiếp Nghị định 32/CP về việc thống nhất công tác đăng ký quản lý hộ khẩu và thống kê dân số, lấy kết quả công tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch làm cơ sở để các ngành khai thác số liệu về dân số phục vụ công tác quản lý xã hội.
Do biến động của tình hình thực tế nên các quy định trong các văn bản và điều lệ ban hành theo Nghị định 104/CP (ngày 27/6/1964) không còn phù hợp. Vì vậy, Quyết định 167/QĐ, điều lệ đăng ký quản lý hộ khẩu ban hành theo Nghị định 04/CP (ngày 7/01/1988) đã bộc lộ những thiếu sót hạn chế nhất định. Chính vì điều đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 51/CP ngày 10/05/1997 thay thế các văn bản quy định trước đây về công tácđăng ký quản lý hộ khẩu.
Công tác quản lý hộ khẩu,luôn được xác định là một trong những biện pháp quan trọng góp phần tăng cường việc quản lý xã hội của Nhà nước. Công tác này Nhà nước giao cho cơ quan Công an trực tiếp tiến hành, các chỉ đạo thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Nghị định 51/CP ngày 10/05/1997 đã xác định rõ: "Đăng ký và quản lý hộ khẩu là biện pháp quản lý hành chính của Nhà nước nhằm xác định việc cư trú của công dân, tăng cường quản lý xã hội, giữ vững ANCT và TTATXH. Chính phủ giao cho BNV (Nay là Bộ Công an) phụ trách việc đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch ".
Khái niệm đăng ký, quản lý hộ khẩu: Đăng ký, quản lý hộ khẩu là quá trình cơ quan Công an dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước để tiến hành đăng ký, quản lý hoạt động cư trú của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định phục vụ cho công tác quản lý xã hội của Nhà nước; công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
Đăng ký và quản lý hộ khẩu có những điểm khác biệt nhau nhưng thực tế đây là một quá trình liên tục, kế tiếp đan xen và có quan hệ biện chứng với nhau. Trong đăng ký đã có nội dung yêu cầu của quản lý và trong quản lý đã bao hàm các nội dung của đăng ký và thực sự đây là một chỉnh thể thống nhất.
Ở Việt Nam, dưới chế độ phong kiến thực dân, việc quản lý con người được coi là một phương tiện, công cụ đắc lực để duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột. Thông qua hoạt động này, Nhà nước phong kiến và giai cấp thống trị không chỉ để bóc lột người lao động mà đây còn là công cụ kiểm soát khống chế, đàn áp nhân dân và những người cách mạng tiến bộ.
Đối với Nhà nước Việt Nam, công tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch được Đảng và Nhà nước ta xác định là biện pháp quản lý hành chính của Nhà nước. Nó có vai trò, vị trí quan trọng trong việc xác định quyền cư trú của công dân, tạo điều kiện để công dân thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và hưởng các quyền lợi và Hiến pháp quy định. Mặt khác, QLHK, NK còn có vai trò quan trọng trong việc quản lý xã hội của Nhà nước. Nó cung cấp tài liệu, số liệu về HK, NK và tạo điều kiện để các ngành các cấp trong việc định hướng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH, quản lý hộ khẩu, hộ tịch được lực lượng Công an xác định đây là một trong những công tác nghiệp vụ rất cơ bản, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài: "Quản lý hộ khẩu là công tác chiến lược rất cơ bản có nội dung chính trị xã hội và nghiệp vụ".
Công tác quản lý hộ khẩu không chỉ đơn thuần thực hiện chức năng QLXH của Nhà nước, là cơ sở để các cấp, các ngành khai thác sử dụng đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản quan trọng giúp cho cơ quan Công an đi sâu nắm chắc từng người làm cơ sở cho các hoạt động phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Thông qua công tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch lực lượng Công an nắm chắc lai lịch, đặc điểm nghề nghiệp, thái độ chính trị và hoạt động của từng người dân, trên cơ sở đó mà phân biệt "người tốt", "người xấu", "người tích cực, "người tiêu cực". Phát hiện và đấu tranh đối với các loại đối tượng phạm tội và những người có hành vi vi phạm pháp luật... Trên cơ sở các tài liệu của công tác này, lực lượng Công an xác định được đối tượng đấu tranh, biết dựa vào ai, tranh thủ ai, giúp đỡ ai, cảm hoá giáo dục ai. Đồng thời đây còn là căn cứ, là cơ sở để lực lượng Công an triển khai thực hiện tốt các mặt nghiệp vụ cơ bản khác.
Thực tiễn trong những năm qua, bằng các hoạt động của công tác quản lý hộ khẩu lực lượng Công an đã thu thập tích lũy được rất nhiều tài liệu về từng hộ, từng người trong các khu vực dân cư. Những tài liệu này có tác dụng rất to lớn trong việc khai thác phục vụ cho các mặt công tác nghiệp vụ của lực lượng Công an như: phát hiện đối tượng điều tra còn sót bổ sung kịp thời các tài liệu thông tin về con người tạo điều kiện cho các hoạt động trinh sát bí mật, kịp thời phát hiện các đối tượng truy nã, truy tìm, xác định tung tích nạn nhân... quản lý hộ khẩu còn cung cấp các tài liệu cần thiết về con người phục vụ cho việc lựa chọn đặc tính, cơ sở bí mật, cộng tác viên danh dự, đội ngũ cán bộ cơ sở, lực lượng nòng cốt làm công tác ANTT tại cơ sở.
Quản lý hộ khẩu là cơ sở và điều kiện để triển khai, thực hiện các mặt công tác nghiệp vụ khác. Nó cung cấp tài liệu cần thiết về lai lịch gốc tích của con người phục vụ cho việc lập hồ sơ xử lý, truy tìm kẻ phạm tội, phục vụ cho các mặt công tác điều tra, truy tố, xét xử... Chính vì vậy, công tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch được xác định là công tác điều tra nghiên cứu sâu sát toàn diện về con người, là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng của biện pháp quản lý hành chính về ANTT. Công tác quản lý hộ khẩu vừa phục vụ cho các yêu cầu trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác để đảm bảo bảo vệ ANQG và giữ TTATXH.
         * Hộ tịch: Tùy theo bản chất của mỗi chế độ xã hội để có quan điểm phù hợp với mục đích của hộ tịch. Tuy nhiên, do vai trò vị trí và tầm quan trọng của hộ tịch, chế độ xã hội nào cũng coi.trọng việc đăng ký và quản lý hộ tịch. Điểm lại quá trình hình thành, phát triển các quy định cơ bản về đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta;
- Giai đoạn trước năm 1945 (thời kỳ phong kiến và thời Pháp thuộc)
Việc lập sổ đinh hay sổ gia phả dưới thời phong kiến ở nước ta chưa thể gọi là sổ hộ tịch, chỉ có thể xem đây là những dấu hiệu xuất hiện ban đầu có liên quan đến hộ tịch. Bới các chứng thư này bị hạn chế nhiều mặt về nội dung và đối tượng điều chỉnh; các việc dân sự (sinh, tử, kết hôn) chưa được chính thức đề cập đến. Sổ đinh với yêu cầu và mục đích phục vụ cho hoạt động binh dịch và thuế khóa của triều đình; Sổ gia phả chỉ giới hạn trong các gia đình quyền quý và các dòng tộc, chưa điều chỉnh các quan hệ xã hội rộng rãi trong xã hội.
Dưới thời Pháp thuộc, với bản chất thống trị và nô dịch, thực dân Pháp xây dựng hộ tịch nhằm phục vụ cho việc cai trị thuộc địa, chủ yếu đảm bảo thực hiện việc binh dịch, thuế khóa vả đặc biệt qua hộ tịch tiến hành các biện pháp kiểm soát chặt chẽ dân tình để trấn áp lực lượng yêu nước đấu tranh giành độc lập. Do đó, ngay từ rất sớm hộ tịch đã được xây dựng thành Luật khắp cả 3 miền: Bắc, Trung và Nam. Quá trình thực hiện các văn bản này không ngừng được củng cố, phát triển phù hợp với mục đích đăng ký và quản lý hộ tịch của chế độ. Biểu hiện bằng việc quy định các chương mục rất cụ thể bởi các bộ Dân luật Bắc kỳ, Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật và Dân Luật giản yếu Nam kỳ. Sau mỗi giai đoạn thực hiện lại ban hành tiếp các văn bản dưới luật hoặc luật mới để điều chỉnh, bổ sung kịp thời theo yêu cầu của chính quyền thực dân. Ngay cả Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật, các nội dung hộ tịch tuy được nhà vua ban hành, nhưng cũng phải phụ thuộc hoàn toàn vào ý chỉ cai tri của thực dân Pháp, cho dù đó chỉ là những vẩn đề mang tính thủ tục hành chính. Điều này thể hiện qua việc ban hành 05 quyển của Bộ luật đều có Nghị định của toàn quyền Đông dương duyệt y hoặc như tại Điều 18 chương I thiên thứ hai quy định "Các quan tỉnh, sau khi ý hiệp với quan công sứ, Có thể cho phép những xóm ở xa bản xã được lập nhân thế bộ riêng".
Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch về cơ bản được phân thành 2 chế độ trách nhiệm rõ ràng: cơ quan hành chính ở cơ sở (ủy ban hành chính cấp xã) chịu trách nhiệm đăng ký và quản lý bước đầu; các cơ quan tư pháp (tòa án, biện lý) chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát và giải quyết các hậu quả phát sinh. Điều này thể hiện nguyên tắc chế ước được khai thác tối đa. Nhân sự hộ tịch được bố trí ổn định mang tính chuyên trách như hộ lại hay ủy viên hộ tịch. Việc quản lý, sử dụng sổ hộ tịch được quy định rất nghiêm ngặt gắn liền với trách nhiệm pháp lý của người có thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch. Quan hệ trách nhiệm trong việc thông tin, điều chỉnh, bô sung nội dung hộ tịch cũng được quy định rõ ràng. Hình thức về biểu mẫu, sổ hộ tịch được quy định rất chi tiết.
Đặc biệt về chế tài hộ tịch quy định vô cùng khắt khe đối với những hành vi vi phạm của cả người có trách nhiệm thực hiện đăng ký, quản lý lẫn người có nghĩa vụ phải khai báo đặng ký, nhất là người thực hiện đăng ký, quản lý, bất chấp trình độ dân trí, điều kiện kinh tế, giao thông đi lại...  của người dân trong giai đoạn đó. Do xuất phát từ bản chất của chế độ, ngoài việc xử lý hành chính với mức phạt tiền rất cao so với thu nhập, chế tài hình sự được đưa trực tiếp luôn vào các văn bản quy định hộ tịch (dù luật hình đã được quy định). Hầu hết.các hành vi vi phạm về đăng ký và quản lý hộ tịch đều bị coi là trọng tội. Chế tài hình sự chủ yếu quy định hình thức phạt tù và mức phạt có thể đến chung thân.
Các quy định về hộ tịch của chế độ thuộc địa và tay sai tuy khá hoàn thiện, nhưng trong thực tiễn việc áp dụng không được như mong muốn của họ. Do nhiều nguyên nhân. trước hết là do bản chất của chế độ, việc đăng ký và quản lý hộ tịch không.nhằm mục đích phục vụ nhân dân mà để thống tri; Đa số người dân chưa thấy được quyền lợi từ việc thực hiện hộ tịch, đã phải gánh chịu nhiều nghĩa vụ từ những quy định hà khắc, không phù hợp với hoàn cảnh điều kiện sông của mình trong giai đoạn đó. Chủ trương của những người kháng chiến yêu nước, của cách mạng giải phóng dân tộc là bằng mọi cách phải lũng đoạn sự quản lý thống trị của thực dân xâm lược và của bộ máy tay sai vốn sẵn quan liêu, thi hành một cách máy móc. Vấn đề khác mang tính đặc thù, xuyên suốt không thể không đề cập đến, đó là chiến tranh ác liệt đã làm hạn chế không ít việc đăng ký và quản lý hộ tịch của các chế độ trước đây.
- Giai đoạn từ nãm 1945 đến năm 1975
+ Quy định về hộ tịch của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, nhưng suốt một thời gian dài từ 1945 đến 1975 đất nước ngập chìm trong chiến tranh bởi hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước nên việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hộ tịch gần như không có sự chuyển biến đáng kể. Việc quản lý nhân thân con người trong giai đoạn này vừa phải đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội; vừa phải đảm bảo phục vụ nhu cầu chiến tranh giải phóng, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội. Do đó trong thời kỳ này, ngoài việc quản lý con người bằng hộ tịch, còn quản lý con người thông qua giải pháp hộ khẩu và các giải pháp khác.
Tổ chức thực hiện.hộ khẩu chủ yếu tập trung cho ngành công an, chỉ phù hợp những yêu cầu nhất thời trong chiến tranh, không phù hợp trong thời bình. Có thể nói trong giai đoạn này, các quy định của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thể hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch bằng biện pháp hành chính đơn thuần tập trung ở đầu vào; tức là chỉ tập trung vào các cơ quan hành chính có thẩm quyền !hực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch, cơ quan tư pháp (tòa án, kiểm sát) chỉ tham gia khi hậu quả phát sinh và có thể làm chuyển biến, chấm dứt hoặc tái lập một sự kiên hộ tịch phát sinh mới. Về tổ chức nhân sự, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa không quy định cơ chế chuyên trách hộ tịch (như hộ lại hoặc ủy viên hộ tịch), chỉ quy định chung về người được phân công phụ trách và cán bộ thực hiện. Việc quản lý sổ bộ, kiêm tra, giám sát công tác đăng ký và quản lý hộ tịch chủ yếu vẫn do hệ thống hành pháp thực hiện, trừ trường hợp Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát việc tuân thủ pháp luật.
Do hoàn cảnh lịch sử, các quy định về thủ tục đăng ký và quản lý hộ tịch thời kỳ này còn quá đơn giản. Quản lý, sử dụng sổ hộ tịch chưa thật rõ ràng. Trong đó, không quy định việc cấp lại bản chính các giấy tờ hộ tịch...
Chế tài hộ tịch hầu như không có, bởi các quy định về chế tài chỉ mang tính nguyên tắc chung, thiếu quy định cụ thể để xác lập các hành vi vi phạm dẫn đến hệ quả người có thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch, thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố ý làm trái quy định, không được xử lý nghiêm túc; người có trách nhiệm đi đăng ký mà không đăng ký hoặc khai gian dối nhưng không có các biện pháp cần thiết để xử lý, ngoại trừ biện pháp giáo dục thuyết phục.
+  Quy định về hộ tịch của chế độ cũ ở miền Nam
Do xác định được vai trò và tầm quan trọng của hộ tịch cũng như yêu cầu cai trị của mình, chế độ cũ không chỉ tiếp tục kế thừa hầu như toàn bộ các quy định về đăng ký hộ tịch giai đoạn từ thời thuộc địa của thực dân Pháp để lại, mà còn quy định bổ sung một cách chặt chẽ hơn trong đó có những quy định vận dụng linh hoạt để đáp ứng trực tiếp yêu cầu của.chiến tranh, như các quy định về khai tử, khai sinh. Việc quản lý, sử dụng sổ hộ tịch được quy định một cách chặt chẽ, gắn liền với trách nhiệm của người có thẩm quyền. Thủ tục quy định cụ thể, rõ ràng có bổ sung qua từng giai đoạn, dù đang trong tình trạng chiến tranh.
Hệ thống tổ chức đăng ký và quản lý hộ tịch được xây dựng ổn định; trong đó có cơ quan hành chính thực hiện đầu vào, cơ quan tư pháp thực hiện tất cả mọi hậu quả phát sinh, đồng thời thực hiện nguyên tắc chế ước giữa các cơ quan này.
Về nhân sự, hộ lại (ủy viên hộ tịch) được bố trí ổn định, mang tính chuyên nghiệp lâu bền.
Chế tài hộ tịch được dự liệu rất cụ thể, áp dụng cho mọi đối tượng vi phạm, cả bên đi đăng ký cũng như bên thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch
Các biện pháp chế tài như kỷ luật, hành chính, hình sự, dân sự được quy định đầy đủ, nghiêm khắc, nhất là biện pháp xử phạt tiền và truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước mặc dù Nhà nước có quan tâm đến hộ tịch nhưng những văn bản quy định về hộ tịch chủ yểu nhằm để xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức và thực hiện hộ tịch ở miền Nam. Bản Điều lệ hộ tịch năm 1961 vẫn tiếp tục được thi hành suốt một thời gian dài gần 40 năm, mãi cho đến 1998 mới ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP thay thế. Có thể nói giai đoạn từ sau giải phóng đến 1998, công tác hộ tịch chưa được quan tâm đúng mức. Biểu hiện qua các vấn đề sau đây:
- Chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất để kịp thời thay thế Bản điều lệ hộ tịch năm 1961. Các quy định trước đây về quản lý, sử dụng hồ sơ, sổ hộ tịch chưa được chặt chẽ; các loại biểu mẫu hộ tịch chưa hợp lý. Vấn đề hộ tịch ở miền Nam có thể coi là đặc thù, bởi phần do chiến tranh hủy hoại, phần do chế độ cũ trước khi tan rã cố ý đốt phá, phần do trong chiến tranh cách mạng chủ trương chống phá sự quản lý của chế độ cũ và phần khác do thiên tai, lũ lụt tàn phá, hoặc do không được bảo quản tốt... Những văn bản quy định về đăng ký hộ tịch không bổ sung kịp thời, đầy đủ để chấn chỉnh lại. Bản chính giấy tờ hộ tịch không được cấp lại nhưng trong thực tế các quan hệ thủ tục đều đòi hỏi bản chính để đối chiếu.
- Quan hệ hộ tịch có yếu tố nước ngoài gặp rất nhiều trở ngại, do thiếu các văn bản điều chỉnh, nhất là trong giai đoạn bước đầu của cải cách đổi mới, tiến hành hội nhập; hầu như mỗi sự kiện hộ tịch phát sinh có yếu tố nước ngoài, đều phải thỉnh thị ý kiến của cấp trên.
- Nhận thức về hộ tịch của cán bộ thực hiện, của cơ quan quản lý chưa đầy đủ xem công tác hộ tịch đơn giản như mọi "nghiệp vụ" hành chính khác, chưa thấy hết tính chất đặc thù của công tác hộ tịch. Đối với người dân, do trình độ hạn chế, hoàn cảnh sinh sống... chưa ý thức được việc đăng ký hộ tịch không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi thiết thực của mình.
- Về nhân sự cho công tác hộ tịch vẫn chưa có cán bộ chuyên trách; cán bộ thực hiện do nhiều nguyên nhân được điều động một cách tùy nghị theo cảm tính. Việc phân công, phân cấp đăng ký và quản lý hộ tịch thiếu nhất quán, khi thì ngành này khi thì ngành khác, hoặc khi thì cấp này khi thì cấp khác.
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP mở ra một bước ngoặc mới cho việc chấn chỉnh công tác hộ tịch; bổ sung và xóa bỏ một bước các thiếu sót và bất hợp lý trên đây. Tuy nhiên, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP vẫn còn những hạn chế nhất định, trong đó chưa giải quyết thông thoáng được về thủ tục, phân cấp đăng ký và quản lý, biểu mẫu hộ tịch chưa hợp lý... Nghị định số 83/1998/NĐ-CP vẫn còn quy định rườm rà vả bất hợp lý, trái với Hiến pháp (quyền cơ bản của công dân), trái với một số đạo luật khác (quyền nhân thân: con sinh ra là phải đăng ký khai sinh); Ví dụ tại Điều 19 khoản 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP quy định "Nếu có đủ các giấy tờ hợp lệ thì Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp ngay một bản chính giấy khai sinh...". Lật ngược lại vấn đề nếu không có đủ các giấy tờ hợp lệ, đương nhiên sẽ không được ký và cấp giấy khai sinh, trái với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về quyền được khai sinh. Nhân sự thực hiện hộ tịch thiếu ổn định, không có chức danh chuyên trách như hộ lại hay uỷ viên hộ tịch.
Nghị định số 158/2005NĐ- CP đã giải quyết cơ bản các vấn đề vướng mắc trên đây. Tuy vậy, cho đến nay chế tài hộ tịch vẫn chưa được quy định cụ thể trừ Nghị định số 87/2001/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Về nhận thức, với chủ trương nền hành chính phục vụ nhân dân nói chung và hộ tịch nói riêng, tuy vậy trong nhiều trường hợp, không ít các biểu hiện nhận thức thiếu đúng đắn, xem hộ tịch là một bộ phận nghiệp vụ hành chính đơn thuần. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ hộ tịch còn khá phổ biến. Đối với nhân dân nhất là ở vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí và ý thức pháp luật về hộ tịch còn hạn chế nhưng việc tuyên truyền, giáo dục, vận động đăng ký hộ tịch không được tiến hành thường xuyên.

1.5 Vai trò của pháp luật quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
            Công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch không những liên quan đến nhân thân của con người mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
            Nhận thức được vị trí và vai trò quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch mà trong những năm qua từ khi thực hiện các Nghị định của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch, trên địa bàn phường Duy Tân Thành phố Kon Tum đã có nhiều chuyển biến tích cực, các sự kiện đăng ký hộ khẩu, hộ tịch của nhân dân cơ bản được thực hiện kịp thời và đúng quy định của pháp luật; công tác phổ biến giáo dục pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch được chú trọng triển khai đến tận cơ sở. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch của nhân dân được nâng lên; đội ngủ cán bộ làm công tác hộ tịch cơ sở được quan tâm, củng cố về số lượng và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ; các loại sổ sách, biễu mẫu hộ tịch được hỗ trợ và cung cấp kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước.













CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ HỘ KHẨU, HỘ TỊCH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI PHƯỜNG DUY TÂN - KON TUM

2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý hộ khẩu, hộ tịch:
            Hiện tại công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch vẫn còn những hạn chế, yếu kém nên đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý dân cư, quản lý xã hội; cũng vì vậy mà công tác hộ tịch chưa đóng góp được nhiều cho việc dự báo để hoạch định, xây dựng và thực thi chính sách về kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước. 
Những hạn chế, yếu kém trong công tác hộ khẩu, hộ tịch thể hiện trên những mặt sau đây:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch còn phức tạp. Mặc dù công tác hộ khẩu, hộ tịch có vị trí, vai trò quan trọng đối với quản lý nhà nước và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân nhưng cho đến nay, ngoại trừ các quy định mang tính nguyên tắc trong Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình..., văn bản điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ khẩu, hộ tịch quá nhiều nên gây khó khăn cho cơ quan hộ khẩu, hộ tịch khi áp dụng (khó nhớ, khó áp dụng), người dân cũng khó phân biệt việc hộ khẩu, hộ tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản nào.
- Việc phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ khẩu, hộ tịch chưa triệt để. Chính vì vậy, đã dẫn đến chồng chéo chức năng quản lý và đăng ký; cũng do việc phân cấp chưa triệt để nên từng cấp chủ yếu lo việc đăng ký, ít quan tâm đến nhiệm vụ quản lý, đặc biệt là công tác kiểm tra, chỉ đạo đối với cấp dưới, từ đó không kịp thời uốn nắn những sai sót (nếu có), đồng thời dẫn đến đùn đẩy nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn lên cấp trên. 
- Sự quan tâm và đầu tư cho công tác hộ khẩu, hộ tịch chưa đồng đều ở các địa phương
- Việc tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ
Một số địa phương vẫn còn coi nhẹ công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, có địa phương chỉ tổ chức triển khai khi có những văn bản mới mà không định kỳ tổ chức bồi dưỡng về nghiệp vụ hộ khẩu, hộ tịch; chính vì không được kịp thời bồi dưỡng nghiệp vụ nên số công chức mới thay không đáp ứng được yêu cầu công việc.
- Chưa tạo điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền đăng ký hộ khẩu, hộ tịch của công dân cụ thể là:
- Quy định về thủ tục đăng ký các loại việc hộ khẩu, hộ tịch còn quá nhiều loại giấy tờ khác nhau, lệ thuộc vào nơi cư trú đã dẫn đến trường hợp công dân không đáp ứng đủ thì không được đăng ký;
- Cán bộ trực tiếp giải quyết công việc hộ khẩu, hộ tịch tự đặt thêm thủ tục giấy tờ khi người dân có yêu cầu đăng ký hộ khẩu, hộ tịch khi hồ sơ đăng ký hộ tịch chưa đầy đủ, cán bộ hộ khẩu, hộ tịch không hướng dẫn một lần mà mỗi lần chỉ hướng dẫn một nội dung nên người dân phải đi lại nhiều lần mới được giải quyết…
- Áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu đăng ký hộ khẩu, hộ tịch của người dân một cách máy móc nên một số trường hợp quyền lợi của người dân giải quyết sai quy định, thậm chí có trường hợp không được giải quyết.
- Tùy tiện trong việc đăng ký, cấp giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch cho công dân; chưa bảo đảm độ chính xác khi cấp giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch
Tình trạng đăng ký không kịp thời, chưa đầy đủ và thiếu chính xác trong đăng ký hộ khẩu, hộ tịch vẫn còn tồn tại ở một số địa phương. Sự tùy tiện trong việc đăng ký, cấp giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch được thể hiện
- Quy định về lưu sổ hộ khẩu, hộ tịch chưa được thực hiện nghiêm túc - Hạn chế trong cải cách thủ tục hành chính
Mặc dù, việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ khẩu, hộ tịch bước đầu đã phát huy hiệu quả; tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong đăng ký hộ khẩu, hộ tịch đôi khi lại có tác động ngược lại, đặc biệt là tiến độ xử lý hồ sơ. 
- Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ.Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ đã dẫn đến tình trạng cùng một tiêu chí, nhưng mỗi ngành có một số liệu thống kê báo cáo khác nhau, điều này đã gây khó khăn cho Nhà nước trong việc hoạch định chính sách. Cơ chế thông báo những thay đổi liên quan đến hộ khẩu, hộ tịch của từng cá nhân cũng chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, nhiều trường hợp không thông báo nên không kịp thời cập nhật những thay đổi về hộ khẩu, hộ tịch liên quan trong sổ hộ khẩu, hộ tịch.
- Phương thức đăng ký hộ khẩu, hộ tịch còn mang tính chất thủ công, mức độ áp dụng công nghệ thông tin còn hạn chế
Mặc dù việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch bằng điện tử đã được triển khai ở một số địa phương, nhưng mức độ còn rất hạn chế. Phương thức đăng ký hộ khẩu, hộ tịch hiện nay chủ yếu vẫn thực hiện theo phương pháp thủ công (ghi bằng tay, lưu bằng sổ giấy). Do chưa có Cơ sở dữ liệu hộ khẩu, hộ tịch điện tử, nên việc lưu sổ giấy dễ dẫn đến bị hỏng, bị mất, từ đó không đáp ứng được yêu cầu thống kê số liệu cũng như yêu cầu cấp giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch cho người dân. Hơn nữa, phương thức đăng ký hộ khẩu, hộ tịch này không phù hợp với định hướng xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại. 
- Công tác thống kê số liệu đăng ký hộ khẩu, hộ tịch còn yếu, chưa bảo đảm độ chính xác của số liệu.
- Nhận thức của người dân đối với quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ khẩu, hộ tịch còn hạn chế nên việc đăng ký quá hạn còn chiếm tỷ lệ tương đối cao.
2.1.1. Pháp luật về chủ thể quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:  
            Chủ thể thực hiện quản lý hộ khau ở nước ta hiện nay gồm:
- Trách nhiệm của Bộ Công an ve quản lý cư trú
 Xây dựng và trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về cư trú.
 Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cư trú.
 Đình chỉ, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền bãi bỏ những quy định về quản lý cư trú trái với quy định của Luật này.
 Ban hành các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về cư trú.
Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý cư trú.
Thống kê nhà nước về cư trú, tổng kết, nghiên cứu khoa học về quản lý cư trú, tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cư trú.
 Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về cư trú.
 Hợp tác quốc tế về quản lý cư trú.
- Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong quản lý cư trú
 Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cư trú tại địa phương.
 Chỉ đạo việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương về quản lý cư trú.
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cư trú.
 Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật.
            - Trách nhiệm của cơ quan đăng ký, quản lý cư trú
 Niêm yết công khai, hướng dẫn cơ quan, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về cư trú.
 Bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt làm công tác đăng ký, quản lý cư trú.
 Cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú đúng thời hạn cho công dân theo quy định của Luật này.
 Quản lý, lưu trữ hồ sơ, tài liệu về đăng ký, quản lý cư trú.
 Giải quyết kịp thời kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan đến cư trú, quản lý cư trú.
            - Người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú
             Người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú phải được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú trong khi thực hiện nhiệm vụ phải có thái độ, lời nói, cử chỉ nghiêm túc, khiêm tốn, hoà nhã; tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, tài liệu có liên quan, viết biên nhận, hẹn ngày trả kết quả và giải quyết đúng thời hạn theo quy định của Luật này; trường hợp hồ sơ còn thiếu hoặc chưa đúng thì hướng dẫn cụ thể, đầy đủ bằng văn bản và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc hướng dẫn đó.
- Huỷ bỏ việc đăng ký thường trú, tạm trú trái pháp luật
Trường hợp cơ quan, người có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký thường trú, tạm trú không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng và điều kiện theo quy định của Luật này thì thủ trưởng cơ quan quản lý cư trú cấp trên trực tiếp có trách nhiệm huỷ bỏ việc đăng ký đó. Căn cứ quyết định của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan đã đăng ký thường trú, tạm trú có trách nhiệm thực hiện việc xoá đăng ký thường trú, tạm trú; cơ quan có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú trước đó phải đăng ký lại.
- Cơ sở dữ liệu về cư trú
 Cơ sở dữ liệu về cư trú do Bộ Công an quản lý là một bộ phận của hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, được xây dựng để phục vụ công tác quản lý nhà nước về cư trú.
 Việc thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ dữ liệu về cư trú phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Ứng dụng công nghệ thông tin để thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin về cư trú đầy đủ, nhanh chóng, chính xác; bảo đảm an toàn dữ liệu theo đúng nguyên tắc, định dạng hệ cơ sở dữ liệu;
 Bảo đảm an toàn các thiết bị lưu trữ thông tin, tài liệu về cư trú;
 Bảo vệ an ninh thông tin về cư trú trên mạng máy tính; bảo đảm an toàn thông tin, tài liệu lưu trữ trong cơ sở dữ liệu về cư trú; phòng, chống các hành vi làm hư hỏng dữ liệu về cư trú.
Việc khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về cư trú phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
 Mọi sự truy nhập đến cơ sở dữ liệu về cư trú phải được sự phê duyệt của thủ trưởng cơ quan quản lý cư trú;
 Việc cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu từ cơ sở dữ liệu về cư trú cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
 Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sao chép, in trái phép thông tin, tài liệu từ cơ sở dữ liệu về cư trú.
 Chính phủ quy định cụ thể về cơ sở dữ liệu về cư trú.
- Khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
 Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về cư trú được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
 Người nào vi phạm quy định của pháp luật về cư trú thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Chủ thể thực hiện quản lý hộ tich ở nước ta hiện nay gồm:

            - Chính phủ;
            - Bộ, cơ quang ngang Bộ (Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao).
            - Ủy ban nhân dân (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã)
            Chủ thể thực hiện đăng ký hộ tịch gồm:
            - Ủy ban nhân dân (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) và cơ quan chuyên môn giúp việc cho Ủy ban nhân dân về vấn đề này (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp);
            - Công chức trực tiếp làm công tác hộ tịch.
            Ở cấp xã, chủ thể thực hiện việc đăng ký hộ tịch có:
- Công chức Tư pháp- hộ tịch là công chức cấp xã giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong đăng ký và quản lý hộ tịch. Đối với những xã, phường, thị trấn có đông dân cư, số lượng công việc hộ tịch nhiều, thì phải có công chức chuyên trách làm công tác hộ tịch, không kiêm nhiệm các công tác tư pháp khác.
Công chức tư pháp- hộ tịch phải có đủ các tiêu chuẩn của cán bộ công chức cấp xã theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và phải có thêm các tiêu chuẩn sau đây:
+ Có bằng tốt nghiệp trung cấp luật trở lên;
+ Được bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác hộ tịch;
+ Chữ viết rõ ràng.
Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật đối với công chức tư pháp-hộ tịch được thực hiện theo quy định chung của pháp luật đối với công chức xã.
 - Chủ tịch UBND cấp xã (hoặc Phó chủ tịch được phân công) cấp xã  thực hiện việc ký các giấy tờ hộ tịch mà công chức hộ tịch đã tổ chức thực hiện.
2.1.2. Pháp luật về đối tượng của quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch:
            - Đối tượng điều chỉnh của công tác đăng ký hộ khẩu là công dân Việt Nam, những người có quốc tịch Việt Nam và việc đăng ký quản lý hộ khẩu gắn liền với địa bàn cư trú và nó được áp dụng đối với tất cả các địa bàn trong phạm vi toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
            - Công dân Việt Nam, những người có quốc tịch Việt Nam có quyền và nghĩa vụ thực hiện đăng ký và quản lý hộ khẩu với cơ quan công an theo quy định.
            - Đối với những người là cán bộ chiến sỹ thuộc các lực lượng vũ trang như: Quân độ và Công an cũng là đối tượng đều chỉnh của công      tác đăng ký quản lý hộ khẩu nhưng ở trong phạm vi nhất định.
            - Người nước ngoài có mặt trên lãnh thổ Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nay trở về nước hiện đang có mặt trên lãnh thổ Việt Nam thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 51/CP và 108/CP mà việc đăng ký quản lý được tiến hành theo các quy định riêng. Những người nước ngoài xin gia nhập quốc tịch Việt Nam và đã được cấp có thẩm quyền cho phép thì tiến hành đăng ký quản lý.
            - Những người đang chấp hành quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú của cơ quan có thẩm quyền và những người đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp quản chế hành chính hoặc đang chấp hành hình phạt quản chế thì không được chuyển hộ khẩu thường trú đến nơi khác.
            - Đối với những người đang chấp hành quyết định cấm cư trú tại các khu vực, địa bàn ghi trong quyết định của cơ quan có thẩm quyền và những khu vực, địa bàn mà cơ quan có thẩm quyền quy định không cho người đến cư trú.
            - Đối tượng điều chỉnh của công tác đăng ký hộ tich là: cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống.
2.1.3. Pháp luật về các biện  pháp quản lý hộ khẩu, hộ tịch:
* Về hộ khẩu:
Theo quy định của Nghị định số 51/CP ngày 10/05/1997 và Thông tư 06/TT-BNV của Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an) ngày 20/6/1997 việc thực hiện đăng ký, quản lý hộ khẩu, bao gồm 5 nội dung cơ bản sau:
- Đăng ký, quản lý thường trú.
- Đăng ký, quản lý tạm trú.
-Đăng ký, quản lý tạm vắng.
- Đăng ký bổ sung điều chỉnh những thay đổi khác về hộ khẩu, nhân khẩu.
- Kiểm tra xử lý vi phạm về đăng ký, quản lý hộ khẩu.
-Làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật về hộ khẩu cho nhân dân.
* Về hộ tịch:
Nghị định số 158/205/N-CP của Chính phủ: Về đăng ký và quản lý hộ tịch
- Đăng ký khai sinh 
- Đăng ký kết hôn
- Đăng ký khai tử
- Đăng ký việc nuôi con
 - Đăng ký việc giám hộ
- Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con
- Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính,bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch.
- Ghi vào sổ hộ tịch các thay đổi hộ tịch khác
- Đăng ký quá hạn, đăng ký lại
- Đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài
Làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật về hộ tịch cho nhân dân.
2.1.4. Pháp  luật về thực trạng quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch tại phường Duy Tân -Kon Tum:
2.1.4.1. Khái quát về phường Duy Tân -Kon Tum:
            Duy Tân là một phường nội thành được thành lập vào năm 1998. Về vị trí địa lý phía Tây Bắc giáp phường Quang Trung, Ngô Mây và xã Đăk Cấm; phía Tây Nam giáp phường Trường Chinh và Quang Trung. có tổng diện tích 5,5km2 nằm phía Bắc trung tâm thành phố Kon Tum. Phường Duy Tân có 09 tổ dân phố với số nhân hộ khẩu 3.571 hộ, 13.941 nhân khẩu, sổ nhân khẩu tạm trú chiếm ¼ dân số; có địa bàn phức tạp về an ninh trật tự đây là một trong những khó khăn cho công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn phường. Đa số nhân dân là lao động sản xuất nông nghiệp và buôn bán nhỏ lẻ, điều kiện cuộc sống kinh tế còn nhiều khó khăn; bên cạnh đó các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễm biễn hòa bình” phản cách mạng, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội nhất là ma túy còn diễn biến phức tạp, nhiều khu vực còn hoang vắng ít người ở như khu vực lò gạch tổ 1, khu vực đồi thông tổ 3 ..
 Về tình hình an ninh nông thôn tuy chưa xẩy ra vấn đề gì lớn, song cũng còn một số hộ gia đình trên địa bàn tổ 1, sau khi di dời khu lò gạch để quy hoạch đền bù, lợi dụng vấn đề này nên đã xây nhà trái phép, gây áp lực với chính quyền, nhằm mục đích đền bù và cấp đất trái định cư. Trước tình hình đó Công an phường đã tham mưu cho cấp Ủy – chính quyền vận động, giải thích tháo gỡ nên cũng không xẩy ra điểm nóng, là phường có nhiều dự án được quy hoạch đã tạo cho nhân dân trên địa bàn phường nhiều phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự tổ chức thực hiện điều hành của chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền với các tổ chức, ban ngành đoàn thể của địa phương.
2.1.4.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch tại phường Duy Tân - Kon Tum
            * Công tác đăng ký tạm trú, lưu trú
            - Đăng ký tạm trú:
Từ 2009- 2012 Công an phường đã tiếp nhận và đang quản lý 1.626 nhân khẩu đến đăng ký tạm trú và 6 tháng đầu năm 2012 có 148 nhân khẩu tạm trú.
            - Đăng ký lưu trú:
Từ năm 2009- 2012 trên địa bàn có 9.779 lượt người lưu trú tại Khách sạn Hưng Yên và Khách sạn Thành Thu, trong đó có 380 người nước ngoài, 6 tháng đầu năm 2012 có 1.891 người lưu trú, trong đó có 55 người nước ngoài.
Qua công tác đăng ký quản lý tạm trú, lưu trú Công an phường đã kiểm tra giấy tờ tùy thân và quan theo dõi các biểu hiện nghi vấn và gửi phiếu yêu cầu xác minh về nơi cư trú cũ. Từ đó đã có một số phiếu trả lời của đơn vị bạn. Thông quan công tác này Công an phường nắm được nhiều thông tin về lai lịch của các đối tượng có tiền án, tiền sự từ đó phục vụ cho công tác đấu tranh pòng ngừa ti phạm có hiệu quả.
Cụ thể qua công tác quản lý tạm trú và gửi phiếu yêu cầu xác minh đã phát hiện ra hàng chục đối tượng ở các tỉnh phía Bắc đến tạm trú làm công tác bốc vác tại kho mì của Công ty TNHH Thịnh Phát có tiền án, tiền sự nhưng không khai báo trong bản khai nhân khẩu.
Lực lượng CSKV đã kiểm tra hơn 300 lượt về việc chấp hành đăng ký tạm trú, tạm vắng, phát hiện và xử lý 80 trường hợp vi phạm, nộp ngân sách nhà nước 7.470.000 (bảy triệu bốn trăm bảy mươi ngàn đồng chẵn).
        * Công tác quản lý hộ tịch:
Hoạt động của tư pháp hộ tịch phường dựa trên cơ sở pháp luật ngày 10 tháng 10 năm 1998 của chính phủ ban hành nghị định 83/NĐ-CP và nay là nghị định 158/ NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 ( Thay thế nghị định 83/ NĐ-CP Nghị định đã được qui định cụ thể trình tự thủ tục đăng ký và quản lý hộ tịch). Ngoài ra trên cơ sở các văn bản liên quan như: Nghị quyết số 35/2000/QH10 Qui định về thi hành luật hôn nhân và gia đình; Nghị định 77/NĐ-CP qui định chi tiết về giải quyết về đăng ký tình trạng hôn nhân thực tế cho những người sống chung sống với như vợ chồng từ ngày 1 tháng 07 Năm 1987 trở về trước và những người sống chung với nhau như vợ chồng từ sau ngày 01 tháng 07 năm 1987 đến ngày 3 tháng 1 năm 2002 phải thực hiện việc đăng ký kết hôn thì pháp luật mới công nhận là vợ chồng, Nghị định 32/2002 của chính phủ qui định việc áp dụng luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số…
Nhìn chung các văn bản pháp luật đã dược qui định cụ thể trình tự, thủ tục thẩm quyền cũng như cách thức tiến hành về đăng ký quản lý hộ tịch, đặt biệt qui định thẩm quyền đăng ký khai sinh thuộc cấp xã, phường và việc nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký quản lý hộ tịch tạo mọi điều kiện thuận lợi chi mọi cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong đăng ký hộ tịch. Đây là cơ sở pháp lý cho các hoạt động tư pháp tạo điều kiện cho việc sử lý các quan hệ tư pháp được thống nhất, đúng pháp luật.
Trên cơ sở nghị định 158/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành các chương trình kế hoạch chỉ đạo trực tiếp của cấp trên. Đảng ủy Phường luôn xác định rỏ nhiệm vụ giáo dục, tuyên truyền pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong các bộ và nhân dân, đồng thời là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy việc quán triệt nghị định 158/CP và các văn bản pháp luật quy định về đăng ký hộ tịch đã được đảng bộ cụ thể hóa thành chương trình, nghị quyết lãnh đạo triển khai thực hiện rộng khắp đến từng người dân trên toàn phường, nhằm giúp nhân dân nắm bắt kịp thời và hiểu rõ các nội dung cơ bản của văn bản pháp luật, từ đó các chủ trương đường lối của Đảng chính sách pháp luật của nhà nước được quần chúng nhân dân đồng tình hưởng ứng triệt để gớp phần từng bước nâng cao đời sống kinh tế xã hội, tình hình an ninh chính trị được giữ vững. Công tác đăng ký, quản lý hộ tịch còn là nhiệm vụ thường xuyên của chính quyền các cấp nhằm theo giỏi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, góp phần tác động tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh và chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình của địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ phường, sự chỉ đạo trực tiếp của ngành cấp trên, ủy ban nhân dân phường đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo tuyên truyền phổ biến các văn bản pháp luật hàng năm, đồng thời giao cho hội đồng phối hợp tuyên truyền phổ biến pháp luật. Phường trực tiếp tham mưu xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai đến tận cán bộ và nhân dân trên địa bàn phường, trong đó chú trọng triển khai Nghị định 158/NĐ-CP và các văn bản liên quan đến công tác hộ tịch. Ngoài ra còn chỉ đạo cho ban tư pháp trực tiếp tham mưu việc niêm yết công khai thủ tục hành chính về hộ tịch đầy đủ theo qui định.
Phường đã bố trí 01 các bộ công chức thực hiện công tác tư pháp - hộ tịch đảm bảo đầu tư cơ sở vật chất, bố trí phòng làm việc, trang thiết bị phục vụ cho công tác đăng ký quản lý hộ tịch đáp ứng nhu cầu thực tế công việc của địa phương















*Kết quả thực hiện công tác hộ tịch tại phường.

STT
Năm lưu trữ
Số lượng sổ đăng ký khai sinh
01
1998-1999
01
02
1999
01
03
2000
02
04
2001-2002
02
05
2003
01
06
2004
01
07
2005
01
08
2006
01
09
2007
01
10
2008
01
11
2009
01
12
2010
01
13
2011
02
14
2001
01( sổ đăng ký quá hạng)
15
2002-2003
01( sổ đăng ký quá hạng)

Tổng số sổ
18










Thống kê số lượng sổ hộ tịch lưu tại UBND phường
STT
Năm lưu trữ
Số lượng Sổ đăng ký Kết hôn
01
1998
01
02
1999
02
03
2000-2001
01
04
2002-2003
01
05
2004
02
06
2005
01
07
2006
01
08
2007
01
09
2008
01
10
2009
01
11
2010
01
12
2011
02
13
2002
01( sổ hôn nhân thực tế)

Tổng số
16

STT
Năm lưu trữ
Số lượng Sổ đăng ký khai tử
01
1998-1999
01
02
2000-2001-2002-2003-2004-2005-2006
01
03
2007-2008
01
04
2009-2010
01
05
2011
02

Tổng số
06




Thống kê số liệu đăng ký trong  sổ hộ tịch tại UBND Phường

STT
Năm lưu trữ
Số trường hợp đăng ký khai sinh
01
1998-199
88
02
1999
111
03
2000
232
04
2001-2002
509
05
2003
222
06
2004
208
07
2005
224
08
2006
220
09
2007
230
10
2008
286
11
2009
271
12
2010
186
13
2011
249
14
2001
44
15
2002-2003
04

Tổng số
3084









STT
.Năm lưu trữ
Số trường hợp đăng ký kết hôn
01
1998
25
02
1999
40
03
2000-2001
143
 04
2002-2003
133
05
2004
61
 06
2005
70
07
2006
82
08
2007
110
09
2008
98
10
2009
86
11
2010
85
12
2011
114
13
2002
124( Hôn nhân thực tế)

Tổng số
1171


STT
Năm lưu trữ
Số trường hợp đăng ký khai tử
01
1998-1999
11
02
2000-2001-2002-2003-2004-2005-2006
94
03
2007-2008
54
04
2009-2010
62
05
2011
21

Tổng số
242




CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ KHẨU, HỘ TỊCH Ở VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘ KHẨU, HỘ TỊCH TẠI PHƯƠNG DUY TÂN - KON TUM
3.1 Đánh giá pháp luật quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch
            Hộ khẩu hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Vì vậy, công tác quản lý  về hộ khẩu, hộ tịch có mối quan hệ mật thiết với quản lý nhà nước thuộc các lĩnh vực của các ngành khác như: quản lý  CMND, quản lý DS-KHHGĐ, các văn bằng, chứng chỉ, hồ sơ CBCC và BHXH... Thực hiện tốt công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch giúp xác định các thông tin về nhân thân của một con người; đồng thời giúp cho cơ quan chức năng phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời những cá nhân cố tình chỉnh sửa các giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch để trốn tránh nghĩa vụ hoặc trốn tránh xử lý của pháp luật...
            Thời gian qua, mối quan hệ giữa các ngành hữu quan: phối hợp giữa ngành tư pháp địa phương trong quản lý hộ khẩu, hộ tịch với ngành công an trong quản lý CMND; ngành y tế trong quản lý DS-KHHGĐ; ngành giáo dục - đào tạo trong quản lý học bạ, văn bằng chứng chỉ; ngành nội vụ trong quản lý BHXH; hội phụ nữ, đoàn thanh niên... trong tuyên truyền pháp luật về hộ tịch luôn được chú trọng. Qua đó đã góp phần vào việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, nâng cao nhận thức của các cá nhân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ khẩu, hộ tịch. Tuy nhiên, giữa quản lý hộ tịch với quản lý hộ khẩu, CMND, DS-KHHGĐ, học bạ, văn bằng chứng chỉ, hồ sơ CBCC, BHXH còn có một số khó khăn, đó là: Một số trường hợp học sinh có 2 giấy khai sinh hoặc bản sao và bản chính khai sinh không thống nhất với nhau làm ảnh hưởng đến việc thi chuyển cấp cho các em và khó khăn cho nhà trường trong việc quản lý hồ sơ học bạ và cấp các văn bằng; nhiều giấy khai sinh trước đây ghi nơi sinh là tỉnh Kon Tum, không ghi địa danh huyện nhưng theo yêu cầu của văn bằng thì phải ghi rõ thông tin huyện và tỉnh; bởi giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán, quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó. Tuy nhiên, hiện nay giấy khai sinh không có mục ghi quê quán; vì vậy, cơ quan cấp sổ hộ khẩu và CMND gặp khó trong việc xác định thông tin này để ghi vào sổ hộ khẩu và CMND. Ngoài ra, việc cấp sổ hộ khẩu và CMND trong một số trường hợp chưa được chặt chẽ, cụ thể: cấp sổ hộ khẩu và CMND không căn cứ vào giấy khai sinh, dẫn đến việc ghi họ tên và ngày tháng năm sinh của đương sự trong sổ hộ khẩu và CMND không phù hợp với khai sinh... Nhìn chung, các quy định của pháp luật hiện hành về hộ tịch cơ bản phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước về quản lý hộ tịch. Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã đi vào nền nếp, được các ngành, các cấp quan tâm, đạt được nhiều kết quả tốt, tạo thuận lợi đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Qua đó, góp phần ổn định và phát triển về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương.
            Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu, hộ tịch và việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch đã bộc lộ những hạn chế nhất định như: Một số văn bản pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch có chứa nội dung mâu thuẫn, chồng chéo; biểu mẫu hộ tịch thường xuyên thay đổi, thủ tục hành chính còn rườm rà; công tác lưu trữ còn bất cập; cán bộ hộ tịch còn kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi và trình độ chuyên môn còn hạn chế; nội dung thông tin trong các biểu mẫu hộ khẩu,  hộ tịch không đồng nhất với thông tin trong các loại biểu mẫu giấy tờ cá nhân khác như: sổ hộ khẩu, CMND và các văn bằng, chứng chỉ... từ đó gây khó khăn cho người dân khi thực hiện các quyền của mình.
            Từ thực trạng nêu trên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới cần sớm cải tiến mô hình quản lý và đăng ký hộ khẩu, hộ tịch theo hướng phân cấp mạnh mẽ về cơ sở. Tất nhiên phải theo một lộ trình thích hợp vì thực trạng số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác hộ tịch hiện nay ở cấp huyện, xã còn nhiều hạn chế, chưa đủ đáp ứng yêu cầu công việc; cần quy định thống nhất cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và hộ khẩu, hộ tịch thành một hệ thống gọi là cơ sở dữ liệu về hộ khẩu, hộ tịch - lý lịch tư pháp. Theo đó, sổ khai sinh là sổ ghi nhận tất cả các thông tin biến động về nhân thân của cá nhân và ghi nhận cả thông tin về án tích cá nhân; dữ liệu hộ tịch hiện nay ở nước ta chủ yếu là bằng giấy nên khó bảo quản và lưu giữ lâu dài; do đó việc tin học hóa đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch là một yêu cầu tất yếu. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu hộ khẩu, hộ tịch điện tử là rất cần thiết, cần có phần mềm chung áp dụng trong cả nước, sau đó tiến tới xây dựng mã số công dân nhằm phục vụ tốt cho việc quản lý dân cư...
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch
            Nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong công tác hộ khẩu, hộ tịch; trong thời gian tới cần tập trung vào những giải pháp sau đây:
- Hoàn thiện thể chế hạn chế lớn nhất trong thể chế về hộ khẩu, hộ tịch là các quy phạm pháp luật về hộ tịch còn phân tán trong nhiều văn bản khác nhau và văn bản điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ khẩu, hộ tịch chỉ là Nghị định và Thông tư. Chính vì vậy, việc xây dựng một đạo Luật về hộ khẩu, hộ tịch làm cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất về đăng ký và quản lý hộ khẩu,  hộ tịch trong toàn quốc và các Cơ quan đại diện là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
- Tiếp tục phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền đăng ký hộ khẩu, hộ tịch. Cần tách bạch rõ ràng hơn chức năng quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch (xây dựng thể chế, hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện thể chế, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm…) và chức năng đăng ký hộ khẩu,  hộ tịch, theo hướng tiếp tục phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ khẩu, hộ tịch cho chính quyền cấp cơ sở; cấp tỉnh chỉ làm nhiệm vụ quản lý.
- Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác hộ khẩu, hộ tịch thì cần thiết phải ổn định, chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức thực hiện công tác hộ tịch thông qua việc xây dựng chức danh hộ khẩu, hộ tịch viên. Việc xây dựng chức danh hộ khẩu, hộ tịch viên sẽ bảo đảm tính chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức này đồng thời cũng là điều kiện cần thiết để Ủy ban nhân dân cấp xã nhận chuyển giao những công việc phức tạp từ Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp huyện.
- Lập Sổ bộ hộ khẩu, hộ tịch và cấp Sổ hộ tịch cá nhân. Để khắc phục tình trạng dữ liệu hộ khẩu, hộ tịch của cá nhân bị phân tán, không kết nối được với nhau thì cần cải tiến sổ hộ khẩu, hộ tịch và phương thức đăng ký, quản lý hộ khẩu,  hộ tịch. Theo đó, cần lập Sổ bộ hộ khẩu, hộ tịch (do cơ quan nhà nước quản lý) và cấp Sổ hộ khẩu, hộ tịch cá nhân (do cá nhân công dân giữ để sử dụng khi cần chứng minh tình trạng hộ khẩu, hộ tịch của mình). Sổ bộ hộ khẩu, hộ tịch được lập và Sổ hộ khẩu, hộ tịch cá nhân được cấp khi công dân đăng ký khai sinh và các sự kiện hộ khẩu, hộ tịch phát sinh sau khi đăng ký khai sinh như: kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi, cải chính hộ khẩu, hộ tịch... cũng sẽ phải được ghi vào Sổ bộ hộ khẩu, hộ tịch và Sổ hộ khẩu, hộ tịch cá nhân.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử Cần xác định, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ khẩu, hộ tịch điện tử là một yêu cầu bức thiết hiện nay. Cơ sở dữ liệu hộ khẩu, hộ tịch điện tử sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch, đặc biệt là trong thống kê, báo cáo số liệu đăng ký hộ khẩu, hộ tịch để phục vụ chính xác, kịp thời cho việc xây dựng, hoạch định chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và trong tra cứu thông tin biến động hộ tịch theo yêu cầu của người dân. 
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch
Công tác quản lý, đăng ký hộ khẩu, hộ tịch cần được coi là công tác quan trọng của cấp uỷ, chính quyền địa phương, không phải là công tác của riêng ngành Tư pháp
- Công an cần xác định vai trò nòng cốt của mình, chủ động, tích cực hơn nữa trong việc tham mưu, đề xuất với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cũng như sự phối hợp với các sở, ban, ngành trong quá trình tổ chức thực hiện; sớm có giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương để khắc phục tình trạng buông lỏng quản lý  hoặc hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, đăng ký hộ khẩu, hộ tịch; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động đăng ký hộ khẩu, hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã; việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch có yếu tố nước ngoài; thay đổi, cải chính hộ khẩu, hộ tịch… kịp thời uốn nắn các sai sót, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch. 
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực cán bộ, công chức làm công tác hộ khẩu, hộ tịch, đặc biệt ở cấp huyện và cấp xã  
Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 27/5/2010 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 đã quy định việc ưu tiên bố trí thêm chức danh Tư pháp hộ tịch. 
Như vậy, về mặt pháp lý, mặc dù các văn bản pháp luật hiện hành quy định về chức danh, số lượng cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn chưa ghi nhận một cách chính thức về chức danh hộ khẩu, hộ tịch viên, nhưng các văn bản này đã quan tâm bố trí thêm chức danh Tư pháp - hộ khẩu, hộ tịch; do đó, trước mắt các cấp chính quyền địa phương cần quan tâm, bố trí đủ mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất 01 công chức chuyên trách về hộ tịch. Để có một đội ngũ làm công tác hộ khẩu, hộ tịch chuyên nghiệp, ổn định; đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; đáp ứng được yêu cầu của công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch trong giai đoạn hiện nay thì công chức được bố trí vào vị trí Tư pháp - hộ khẩu, hộ tịch  phải đủ tiêu chuẩn theo quy định và phải được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ khẩu, hộ tịch để đảm nhiệm công tác chuyên môn. 
- Tiếp tục củng cố mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan; bảo đảm tính kết nối, liên thông giữa cơ quan quản lý, đăng ký hộ khẩu, hộ tịch với các cơ quan khác có liên quan trong quản lý và khai thác các thông tin, số liệu về hộ tịch.
- Tăng cường bảo đảm các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp 
Các cấp chính quyền địa phương cần xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác hộ tịch trong việc góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình để quan tâm, đầu tư hơn cho công tác này. Cần dành kinh phí nhất định cho việc mở các lớp tập huấn, các đợt tuyên truyền để người dân hiểu được quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ khẩu, hộ tịch của mình. Tại các xã, phường, thị trấn cần trang bị đầy đủ phương tiện làm việc (máy tính), tủ lưu hồ sơ, sổ hộ tịch, bố trí địa điểm tiếp dân... 
-Tăng cường công tác tuyên truyền Cần coi công tác tuyên truyền là nhiệm vụ không thể thiếu của chính quyền các cấp; nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân, đặc biệt là bà con thuộc khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa là đòi hỏi cấp bách, cần được thực hiện thường xuyên. Để thu hút sự tham gia của bà con, cần có những tài liệu chuẩn phục vụ công tác tuyên truyền, trong đó lưu ý trình độ của bà con theo từng vùng (tránh việc đọc văn bản), bên cạnh đó cũng cần đầu tư những khoản kinh phí cần thiết phục vụ cho công tác tuyên truyền, để bảo đảm hiệu quả của công tác tuyên truyền.
- Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân khi có yêu cầu đăng ký hộ khẩu, hộ tịch
Thực hiện yêu cầu cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm bớt chi phí và phiền hà cho công dân khi có yêu cầu đăng ký hộ khẩu, hộ tịch đã được thể hiện tại qua các Nghị định; tuy nhiên, để người dân thực sự được hưởng lợi từ yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, đòi hỏi trước hết là các công chức trực tiếp giải quyết yêu cầu đăng ký hộ khẩu, hộ tịch của công dân phải là những người có đạo đức, có tâm với nghề; thực hiện đúng chức trách của cán bộ công chức nói chung và cán bộ làm công tác hộ khẩu, hộ tịch nói riêng đã được quy định cụ thể trong pháp luật.
 - Đổi mới công tác thống kê, báo cáo về hộ khẩu, hộ tịch các ngành, các cấp cần quan tâm đến công tác thống kê, báo cáo về hộ tịch. Số liệu báo cáo phải được cập nhật kịp thời, đầy đủ, bảo đảm độ chính xác của số liệu.
- Củng cố và tăng cường hoạt động đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch tại các Cơ quan đại diện Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao trong việc tập huấn về nghiệp vụ hộ tịch, quốc tịch cho các cán bộ sang làm công tác lãnh sự tại các Cơ quan đại diện; tổ chức các đoàn kiểm tra để kịp thời uốn nắn những sai sót (nếu có) trong quá trình thực hiện.Các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cần thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về hộ tịch, kể cả việc đăng ký sổ kép; bảo đảm đưa công tác hộ tịch, quốc tịch tại các Cơ quan đại diện ngày càng đi vào nền nếp, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước cũng như đáp ứng yêu cầu đăng ký hộ tịch của công dân Việt Nam ở nước ngoài.
3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch tại phường Duy Tân - Kon Tum
         - Làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch cho nhân dân.
Phương châm của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện công tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch của Nhà nước là phải thuận tiện, dễ dàng cho nhân dân, đồng thời phải đảm bảo việc đăng ký đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Do đó để làm tốt cộng tác này, các cơ quan có thẩm quyền phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch cho nhân dân, giúp mọi người hiểu rõ việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch là chấp hành pháp luật Nhà nước, đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi công dân.
         Về phương pháp tuyên truyền, ngoài việc đổi mới nội dung tuyên truyền phổ biến quy định pháp luật quy định về quyền lợi của người dân trong xã hội theo phương châm thiết thực, hướng về cơ sở thì cần đổi mới cách thức tuyên truyền tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch từ đó sẽ nâng cao ý thức tự giác của người dân chủ động liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ khẩu, hộ tịch. Nếu thực hiện tốt việc này sẽ giảm áp lực cho cán bộ công chức đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về công tác hộ khẩu, hộ tịch. Đưa nội dung hộ khẩu, hộ tịch vào chương trình giáo dục phổ thông cấp 2, 3 nhằm giáo dục ý thức của trẻ em, thanh thiếu niên trong chấp hành tốt quy định pháp luật vê hộ khẩu, hộ tịch.
         - Cải tiến phương thức quản lý hộ khẩu, hộ tịch, xây dựng cơ sở dữ liệu tin học.
         Việc áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý cần được triển khai đồng bộ trên phạm vi cả nước để tiến tới nối mạng và thực hiện đăng ký trên mạng như một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc tin học hóa cần phải có những giải pháp phù hợp cho mỗi bước đi để đảm bảo việc đăng ký, quản lý đáp ứng yêu cầu "kịp thời, đầy đủ và chính xác.
         - Chú trọng công tác kiểm tra, giải quyết khó khăn vướng mắc và hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ hộ khẩu, hộ tịch phường, xã, thị trấn.
         - Bộ Tư pháp định kỳ hằng năm có kế hoạch tổ chức Hội nghị chuyên đề về hộ khẩu, hộ tịch với quy mô toàn quốc (hay khu vực) nhằm tổng kết kết quả hoạt động, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ hộ khẩu, hộ tịch.
         - Sở Tư pháp - Công an tỉnh xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện kiểm tra định kỳ công tác hộ khẩu, hộ tịch của phường, xã; kịp thời có văn bản hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ, giải quyết các khó khăn vướng mắc trong quá trình hoạt động.
         - Phát huy vai trò của UBND phường trong việc hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra hoạt động đăng ký hộ khẩu, hộ tịch ở cấp phường, tương xứng với vai trò là "cầu nối" bảo đảm hoạt động quản lý thông suốt giữa cấp tỉnh và cấp xã.
            - Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân Việt Nam trong các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, Việt Nam cần mở rộng quan hệ hợp tác song phương; ký kết hiệp định tương trợ tư pháp các nước, đặc biệt là đối với các quốc gia có nhiều người Việt Nam đang định cư, sinh sổng. Trước mắt, nếu chưa ký được Hiệp định tương trợ tư pháp, cần có thỏa thuận cấp quốc gia thực hiện nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ đối ngoại, nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi cho công dân Việt Nam trong các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.




Kết luận:
Quản lý nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch là công việc của hệ thống quản lý hành chính Nhà nước để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước ta vững bước hòa nhập chung với thế giới.
Thực tế cho thấy, trong mọi điều kiện và hoàn cảnh của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú trọng tới công tác hộ khẩu, hộ tịch từng bước quan tâm xây dựng, đổi mới chế độ, chính sách đào tạo đối với đội ngũ cán bộ công chức quản lý hộ khẩu, hộ tịch theo hướng không ngừng nâng cao vị thế, cũng như chính sách quản lý về hộ khẩu, hộ tịch trong xu thế phát triển, coi công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý hộ khẩu, hộ tịch là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng và củng cố chính quyền nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
            Đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch là một trong những công tác rất quan trọng của Nhà nước để QLXH đồng thời là một trong những công tác cơ bản thường xuyên lâu dài của lực lượng Công an- Tư pháp... Tiến hành công tác này có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước và của toàn xã hội.
Trong thời gian qua lực lượng chuyên trách đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu, hộ tịch góp phần tích cực vào việc đảm bảo quyền tự do cư trú của công dân, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về an ninh trật tự. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì việc đăng ký quản lý hộ khẩu, hộ tịch vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, thiếu sót nhất định. Từ đó việc quản lý hộ khẩu, hộ tịch  cần phải được cải tiến, để theo kịp đà phát triển chung của đất nước nói chung và Kon Tum nói riêng. Qua việc phân tích, đánh giá tình hình đặc điểm và hoạt động của quản lý hộ khẩu hộ tịch  cũng đã phản ánh rõ thực trạng hiện nay về hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an-Tư pháp song với trình độ và thời gian hạn chế, bản thân cũng chưa có nhiều kinh nghiệm về công tác này. Mặt khác, công tác quản lý hộ khẩu hộ tich là một trong những vấn đề lớn. Do vậy, chắc chắn bài luận văn này cũng còn nhiều tồn tại thiếu sót nhất định vì thế tôi rất mong quí thầy cô bổ sung ý kiến để bản luận văn này hoàn chỉnh hơn.