LỜI CẢM ƠN
Được
sự hướng dẫn giảng dạy nhiệt tình của quý thầy cô trong bao năm qua và sự giúp
đỡ nhiệt tình của các anh chị tại UBND phường Trường Chinh Thành phố Kon Tum
giúp đỡ tôi hoàn thành bài luận văn của mình.
Tôi
xin chân thành cảm ơn tất cả các quý thầy cô đã truyền đạt kiến thức và kinh
nghiệm quý báu giúp tôi nâng cao nhận thức và học hỏi được nhiều kinh nghiệm,
rút ra những bài học để đúc kết cho bài tiểu luận trong quá trình thực tập và
phục vụ cho quá trình công tác sau này.
Tôi
xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Quang Bình đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong
suốt thời gian làm tiểu luận.
Xin chân thành cảm ơn sự
quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị tại UBND phường Trường Chinh Thành
phố Kon Tum tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành luận văn của mình.
Mặc dù
có nhiều cố gắng nhưng thời gian thực tập tại UBND phường có hạn, sự hiểu biết của bản thân trong lĩnh
vực còn nhiều hạn chế, nên nội dung đề
tài chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót và văn phạm chưa được xuất
tích. Kính mong được sự chỉ bảo góp ý của thầy cô và Chủ tịch UBND phường
Trường Chinh.
Xin chân thành cảm ơn!
Trường Chinh,
ngày.........tháng ........năm 2009
Sinh viên thực
hiện
Hồ Kim Nghiêm
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Việc làm luôn là vấn đề sống còn, là mối quan tâm hàng đầu trong các
chính sách kinh tế- xã hội của các quốc gia. Hiệu quả của việc giải quyết việc
làm gắn liền với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Đặc biệt, sự diễn
biến mạnh mẽ của quá trình ĐTH, CNH, HĐND ở nước ta trong những năm gần đây
càng nhấn mạnh thêm ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm. Trong quá trình ĐTH, việc thực hiện bố trí lại nơi cư trú và hỗ trợ
ổn định cuộc sống cho người dân trong khu vực bị giao đất, DDGT là hết sức quan
trọng và cần thiết. Việc biến đổi và tạo lập mới một cách căn bản những điều
kiện sống, môi trường sống của dân cư đô thị do quá trình DDGT, bố trí lại nơi
cư trú mang lại ít nhiều gây xáo trộn trong đời sống sinh hoạt của người dân mà
trước hết và quan trọng nhất là sự biến đổi về lao động, việc làm. Chính sự
biến đổi này đã làm gia tăng áp lực phải giải quyết vấn đề việc làm ở các đô
thị.
Ở phường Trường Chinh trong những năm qua, việc quy hoạch lại dân cư,
chỉnh trang đô thị, xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội là một chính sách lớn được các cấp ủy
Đảng, chính quyền và nhân dân phường Trường Chinh đặc biệt quan tâm. Chính sách
này đã làm thay đổi toàn diện mạo của một phường Trường Chinh trên đà phát
triển, không chỉ tạo lập được điều kiện sống, môi trường sống với chất lượng
tốt hơn mà còn mang lại niềm tin, niềm tự hào của người dân đối với Đảng và
chính quyền phường Trường Chinh. Qua 8 năm thực hiện
quy hoạch, chỉnh trang đô thị, phường Trường Chinh đã có gần 60.000 hộ
dân phải thực hiện DDGT, giao đất lại để xây dựng các khu công nghiệp, khu du
lịch, dịch vụ và các khu đô thị mới. Đến nay, hầu hết các hộ thực hiện DDGT từ
năm 2003 trở về trước đã được bố trí đất tái
định cư, từng bước ổn định cuộc sống. Thông qua chính sách đền bù, một số hộ đã
có vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, một bộ phận người lao động được thu hút
vào làm việc ở các khu công nghiệp, các công trình xây dựng, con em họ được học
nghề miễn phí và có cơ hội tìm việc làm ổn định. Một số lao động thuần nông
được chính quyền, đoàn thể hướng
dẫn, hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề.
Tuy nhiên, đằng sau những thành tựu bề nổi đó ẩn nấu nhiều vấn đề kinh
tế-xã hội cần giải quyết như: Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và nhất là vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm của lao động có việc làm tạm thời, lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp, lao động ít có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp thuộc diện DDGT nhằm tạo
thu nhập, ổn định cuộc sống nổi lên như một hiện tượng vừa mang tính khách
quan, phổ biến của quá trình ĐTH vừa mang tính đặc thù của phường Trường Chinh.
Hiện nay, số lao động thuộc diện DDGT mất việc làm và không chuyển đổi được
ngành nghề là khá lớn. Nhiều hộ chưa có đất để bố trí lại nơi cư trú phải ở
trong các khu nhà tạm hoặc thuê nhà ở nên không thể yên tâm tổ chức sản xuất
hoặc không thể vay vốn để sản xuất kinh doanh hay mở rộng hoạt động dịch vụ;
một số lao động phổ thông còn rất khó khăn do thiếu vốn, trình độ văn hóa thấp,
không nghề nghiệp và trình độ chuyên môn kỹ thuật, việc làm tạm thời, thu nhập
thấp, không có tiền đi học nghề. Mặc dù được hưởng chế độ hỗ trợ chuyển đổi
ngành nghề song người lao động vẫn không tham gia học nghề phù hợp nên rất khó
có cơ hội tìm được việc làm ổn định.
Xuất phát từ những vấn đề trên đây, khi mà quá trình QHCT đô thị ở phường
Trường Chinh đang vẫn còn tiếp tục thì việc tìm hiểu thực trạng vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động thuộc diện thực hiện DDGT ở phường Trường Chinh
là yêu cầu cấp thiết. Do đó tôi chọn vấn đề “Giải quyết việc làm cho diện di
dời, giải tỏa nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở phường Trường Chinh”
làm đề tài nghiên cứu cho báo cáo thực tập năm học 2009.
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Quá trình ĐTH diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ ở nước ta hơn một thập kỷ
gần đây đã và đang tác động là thay đổi sâu sắc mọi mặt đời sống kinh tế-xã
hội. Trong quá trình đó, những tác động của ĐTH luôn bộ tính hai mặt; tích cực tiêu cực làm nảy sinh nhiều vấn
đề kinh tế-xã hội cần quan tâm giải quyết, đặc biệt là vấn đề lao động-việc
làm. Đứng trước yêu cầu của thực tiễn đó, trên phương diện lý luận đã có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này và thường được tập trung vào các
hướng chủ yếu sau:
Hướng thứ nhất: Phân tích làm
rõ thực trạng biến đổi thu nhập, việc làm của người lao động dưới tác động của
ĐTH, đặc biệt là việc làm của lao động nông nghiệp thuộc diện thu hồi đất sản
xuất, thực hiện DDGT. Hướng nghiên cứu này thường được tiếp cận dưới góc độ
chính sách và chủ yếu dựa trên những khảo sát thực tế ở địa phương đang diễn ra
quá trình ĐTH. Trên cơ sở đó, tiến hành xem xét, đánh giá các chính sách quy
hoạch đô thị có phù hợp với thực tiễn đang diễn ra hay không. Từ đó đề xuất,
kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung những chính sách hiện hành cho phù hợp với
yêu cầu thực tiễn của địa phương.
Hướng thứ hai, tập trung đánh
giá mức độ tác động của ĐTH
đến sự biến đổi thu nhập, mức sống, việc làm và sự phân hóa giàu nghèo, phân
tầng xã hội của các nhóm cư dân khác nhau. Đa số những công trình nghiên cứu
theo hướng này thường được tiếp cận dưới góc độ xã hội học và bằng phương pháp
điều tra xã hội học. Mục tiêu nghiên cứu chủ yếu là vạch ra những xu hướng
khách quan cơ bản nhất về những biến đổi mức sống, thu nhập, việc làm và phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội. Qua đó, đề xuất những giải pháp hạn chế và
khắc phục những tác động tiêu cực của ĐTH, đồng thời định hướng về mặt lý
thuyết cho quá trình ĐTH được diễn ra nhanh chóng, bền vững và đúng hướng.
Nhìn chung, những công trình trên đã tiếp cận, nghiên cứu vấn đề việc làm
của người lao động trong quá trình ĐTH ở nhiều góc độ khác nhau và đã gợi mở ra
những hướng nghiên cứu mới rất bổ ích. Song cho đến nay chưa có một công trình
nào nghiên cứu vấn đề việc làm trong quá trình ĐTH ở Phường Trường Chinh một
cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống.
III. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI ĐỀ TÀI:
1. Mục tiêu:
Làm rõ thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động
thuộc diện DDGT trong quá trình ĐTH ở phường Trường Chinh, từ đó đề xuất giải
pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động thuộc diện DDGT trong quá
trình ĐTH ở phường Trường Chinh.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm
cho người lao động trong quá trình đô thị hóa.
+ Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng lao động, việc làm và sự biến
đổi lao động, việc làm trong quá trình ĐTH, QHCT đô thị ở phường Trường Chinh.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động thuộc
diện DDGT trong quá trình QHCT đô thị ở phường Trường Chinh.
+ Đề xuất giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động thuộc diện
DDGT ở phường Trường Chinh.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN
CỨU ĐỀ TÀI:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động thuộc diện DDGT
trong quá trình ĐTH ở Phường Trường Chinh.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp thuộc diện giao đất, DDGT, bố trí lại nơi cư trú từ khi phường
Trường Chinh thực hiện chính sách QHCT đô thị (1997)
đến nay (2006).
Đề tài không nghiên cứu vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho các
đối tượng khác như: Lao động là cán bộ công chức, lao động nhập cư, lao động
dôi dư, do quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, lao động đã có việc làm
ổn định, lao động phổ thông, lao động tự do đang hoạt động trong khu vực kinh tế không chính thức.
V. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý
thuyết kinh tế học phát triển, kinh tế học lao động, việc làm hiện đại.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu và thực hiện những nhiệm vụ của đề tài
đề ra, tác giả sẽ sử dụng những phương pháp sau: Phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin; phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh,…
VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm 03
chương.
Chương
I
VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
1.1. V IỆC LÀM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN VIỆC LÀM:
Lý luận về sự phát triển đã chỉ ra con người là trung tâm của sự phát
triển. Mọi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đều hướng vào việc phát triển
con người một cách toàn diện và đảm bảo các quyền cơ bản của con người nhằm
khơi dậy động lực cho sự phát triển, trong đó đảm bảo cho những người có sức
lao động được có quyền làm việc và có việc làm thường xuyên được coi là một
trong những vấn đề cốt lõi nhất.
Ở các nước đang phát triển, có xuất phát điểm thấp từ nông nghiệp như
Việt Nam với đặc trưng của nền kinh tế hai khu vực: Khu vực nông nghiệp, nông
thôn truyền thống, năng suất lao động thấp, dư thừa lao động và khu vực công
nghiệp thành thị, hiện đại, năng suất lao động cao hơn thì tiến hành CNH, HĐH
được xem là con đường để tăng trưởng và phát triển. Bởi CNH, HĐH sẽ cho phép
tăng trưởng nhanh việc làm trong công nghiệp, giải quyết đầu ra cho nông
nghiệp, thu hút ngày càng nhiều lao động, dư thừa từ nông thôn, giải quyết tốt
vấn đề việc làm ở khu vực đô thị, khai thác và tận dụng tốt đa các lợi thế và
các nguồn lực hội tụi với mức độ cao ở đô thị, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. Tuy nhiên, quá trình ĐTH ở nước ta trong
nhiều năm qua chủ yếu chỉ dựa vào sự tăng quy mô dân số đô thị là dựa vào sự
phát triển công nghiệp. Do đó, đã và đang làm cho tình trạng thất nghiệp, thiếu
việc làm ở khu vực đô thị trở thành vấn đề nóng bỏng, gây sức ép lớn về kinh
tế-xã hội. Vì vậy, nghiên cứu tác động của ĐTH đến việc làm là vấn đề cần được
quan tâm một cách thỏa đáng.
1.1.1. Khái niệm:
- Việc làm:
Việc làm là một phạm trì tổng hộp liên kết các yếu tốt của quá trình kinh
tế-xã hội, nhập khẩu, chất lượng lao động. Việc làm là một trong những vấn đề
chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Chính vì vậy, cho đến nay đã thu hút
sự quan tâm nghiên cứu của không ít những nhà khoa học với nhiều cách hiểu khác
nhau về việc làm.
Trước đây đã có quan niệm cho rằng, việc làm phải là những công việc yêu
cầu một chuyên môn nào đó, tạo ra một thu nhập nhất định. Người có việc làm
phải thuộc diện biên chế Nhà nước hoặc làm việc trong khu vực kinh tế quốc
doanh. Với cách hiểu ở trạng thái tĩnh như vậy, đã không bao hàm hết tất cả
những hoạt động khác nhằm tạo ra thu nhập cho bản thân, gia đình người lao động
và xã hội mà không bị pháp luật cấm. Do đó, cũng tạo ra sự phân việt đối xử về
lao động giữa các thành phần kinh tế, không khơi dậy được tối đa các nguồn lao
động cho sự phát triển, đồng thời nó có giới hạn phạm vi giải quyết việc làm
chỉ là trách nhiệm của Nhà nước.
Nếu hiểu theo trạng thái động, trong giáo tình Kinh tế lao động của
trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1998) thì khái niệm việc làm được hiểu là “phạm trù dùng để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động với tư
liệu sản xuất và những điều kiện cần thiết sử dụng sức lao động đó”[60, tr 26]. Trạng thái phù hợp này thể hiện ở các mặt số lượng và chất lượng.
Vì vậy, tạo việc làm là một quá trình tạo ra tư liệu sản xuất (số lượng và chất
lượng), sức lao động (số lượng và chất lượng) và điều kiện kinh tế-xã hội khác.
Quan điểm này có mặt tích cực là khái quát được bản chất của việc làm, thừa
nhận mọi hoạt động có ích đều là việc làm cà chỉ được cách thức tạo việc làm. Tuy nhiên, quan điểm này
dễ làm người ta lẫn lộn, nhầm lẫn giữa việc làm hợp pháp và không hợp pháp,
nhất là trong bối cảnh nước
ta hiện nay đang xuất hiện rất nhiều hoạt động có ích cho cá nhân hay một nhóm
người nào đó những gây nguy hại cho xã hội, không được xã hội thừa nhận đã trở
nên bức bách.
Theo tác giả Đặng Xuân Thào thì: “việc
làm là một dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm, có thu nhập hoặc tạo
điều kiện tăng thêm thu nhập của người thân, gia đình hoặc cộng đồng” [52,
tr 25]. Quan niệm này hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội nước ta
hiện nay. Một mặt, nó mở rộng phạm vi trong quan niệm việc làm, tránh được tình
trạng phân biệt đối xử về lao động, kích thích, khơi dậy và động viên được
nguồn nhân lực cho sự phát triển, mặt khác nó giới hạn được những hoạt động có
hại cho cộng đồng, xã hội theo khuôn khổ pháp luật quy định.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm, song đa số các tác giả
đều thống nhất rằng việc làm là một dạng hoạt động kinh tế-xã hội phải có đầy
đủ các đặc trưng sau:
- Thứ nhất, việc làm là hoạt
động có chủ đích của con người.
- Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật
cấm.
- Thứ ba, hoạt động đó phải mang
lại thu nhập hoặc giảm chi phí cho gia đình và cộng đồng.
Những đặc trưng trên đây cũng là nội dung cốt lõi bao quát được bản chất
của việc làm được thống nhất và cụ thể hóa trong khái niệm việc làm của Bộ luật
Lao động được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX thông
qua tại Khoản 1, Điều 13, Chương II như sau: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm, đều được
thừa nhận là việc” [43, tr. 13].
Khái niệm trên cho thấy sự đổi mới sâu sắc trong nhận thức về việc làm và
giải quyết việc làm. Từ chổ quan niệm rằng, giải quyết việc làm là trách nhiệm
của Nhà nước và chỉ có biên chế làm việc trong cơ quan nhà nước mới được coi là
việc làm, nay đã chuyển sang nhận thức mới, mọi hoạt động tạo ra thu nhập
không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm và giải quyết việc làm không chỉ là tách nhiệm của Nhà nước mà
còn là trách nhiệm của bản thân người lao động và toàn xã hội. Trách nhiệm của
Nhà nước thay vì “bao cấp” việc làm
như trước đây, nay thông qua việc ban hành có chế, chính sách, pháp luật tạo
tạo môi trường thuận lợi đảm bảo cho người lao động tự do thuê mướn, ký kết các
hợp đồng lao động. Quan niệm về việc làm này đã được mở rộng, tạo ra nhiều khả
năng cho việc giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều
người, huy động được nguồn lực cho phát triển.
Để giải quyết việc làm có hiệu quả cần phải xác định rõ người có việc
làm, người thiếu việc làm, người đủ việc làm, người có việc làm ổn định, người
có việc làm tạm thời, việc làm hợp lý,… Tuy nhiên, việc làm là một dạng hoạt
động kinh tế-xã hội có phạm vi rộng lớn và rất đa dạng nên việc phân định việc
làm một cách rạch ròi là một vấn đề hết sức khó khăn. Thông thường người ta
phải căn cứ và kết hợp nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại như thời gian làm
việc, chế độ làm việc, mức thu nhập, độ tuổi,…với ý nghĩa đó có thể phân loại
như sau:
- Người có việc làm: Theo các
nhà thống kê về lao động của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra tại Hội nghị
Quốc tế lần thứ 13 (1983) như sau: “Người
có việc làm là người làm việc gì đó, có được tiền trả công, lợi nhuận bằng tiền
hay bằng hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc
làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận tiền công hay hiện vật” [5, tr.47]. Dựa vào khái niệm tổng quát này, tùy theo điều kiện
hoàn cảnh cụ thể mà mỗi nước đưa ra những tiêu chí cụ thể để xác định
người có việc làm hay không. Thông thường các tiêu chí đó là: giới hạn về thời
gian làm việc; giới hạn về độ tuổi; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng không
có việc làm trong tuần lễ điều tra nhưng họ sẽ tiếp tục trẻ lại làm việc sau
thời gian nghỉ.
Ở Việt Nam theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội thì “người có việc làm là người đủ 15
tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ
liền kề trước thời điểm điều tra (gọi tắt là tuần lễ tham khảo) có thời gian
làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người coi là có việc làm” [3,
tr. 17]. Mức chuẩn về thời gian làm việc được sử dụng phổ biến trong các cuộc
điều tra ở nước ta là 8 giờ.
Căn cứ vào số giờ thực tế làm việc, chế độ làm việc và nhu cầu làm thêm
của người được coi là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra, người có việc
làm lại chia ra: người đủ việc làm và người thiếu việc làm.
+ Người thiếu việc làm: Theo
ILO người thiếu việc làm “là người trong
tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người đủ việc
làm và có nhu cầu làm việc” [5,
tr. 54]. Người thiếu việc làm có hai dạng: người thiếu việc làm hữu hình và
người thiếu việc làm vô hình.
Người thiếu việc làm hữu hình
là người có việc làm nhưng có số giờ làm việc trong tuàn lễ tham khảo ít hơn
mức chuẩn quy định và họ mong muốn có được việc làm thêm.
Người thiếu việc làm vô hình là
người có thời gian làm việc trong tuần lễ tham khảo bằng hay nhiều hơn mức
chuẩn quy định cho người đủ việc đảm bảo mức sống tối thiểu, việc làm đó không
phù hợp với họ về chuyên môn nghiệp vụ, tuổi tác, sức khỏe,…và họ mong muốn có
việc làm thêm hay tìm kiếm việc làm khác.
Việc quy định về mực chuẩn số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo cho
người đủ việc làm tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, chẳng hạn ở
Nigiêria, Thổ Nhĩ Kỳ là 40 giờ; Úc, Nhật Bản là 35 giờ; Canada, Jamaica là 30
giờ; Malaixia là 25 giờ. Ở nước ta, theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thì
“người thiếu việc làm là những người có
số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo
dưới 36 giờ; hoặc ít hơn giờ chế độ quy định đối với người là các công việc
nặng nhọc, độc hại, có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng làm việc khi có việc
làm” [3, tr.17].
Người có việc làm ổn định: Quan
niệm về người có việc làm ổn định hiện nay ở nước ra có nhiều các hiểu khác
nhau. Có quan niệm cho rằng, người có việc làm ổn định là người thường xuyên có
một chỗ làm việc nào đó “cố định”; quan
niệm khác lại lấy tiêu chí thời gian có việc làm để xem xét người đó có việc
làm ổn định hay không. Thiết nghĩ, những quan niệm trên đây quá đơn giản, một
mặt nó không phản ánh được cái quyền được làm bất cừ việc gì mà pháp luật không
cấm; mặt khác, khi nói đến việc làm ổn định thì không thể chỉ căn cứ vào tiêu
thức thời gian để xác định mà còn phải căn cứ vào mức thu nhập có đảm bảo cho
mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ hay không, bởi lẽ khi làm
việc thì mục tiêu đầu tiên của người lao động là phải nuôi sống được bản thân.
Với các tiếp cận như vậy, theo chúng tôi người
có việc làm ổn định là những người thường xuyên có bất cứ việc làm gì mà pháp
luật không cấm với thời gian làm việc đủ dài và thu nhập từ những việc làm đó
đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần ở mức trung bình xã hội cho
bản thân, gia đình, không nhất thiết người đó phải sử dụng hết quỹ thời gian
lao động hoặc năng lực hay chưa.
Người có việc làm hợp lý: là
những người có việc là đầy đủ, ổn định phù hợp với nguyện vọng, đặc điểm tâm
sinh lú và khả năng, trình độ chuyên môn nghề nghiệp và năng khiếu của bản
thân. Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp không chỉ về số lượng mà cả mặt chất
lượng giữa sức lao động với tư liệu sản
xuất và các điều kiện kinh tế-xã hội khác. Do vậy, người có việc làm hợp lý có
năng suất cao hơn là một bước phát triển vượt bậc so với người có việc làm đầy
đủ. Tuy nhiên, trong điều kiện của nước ta hiện nay khó có thể giải quyết một
cách thỏa đáng nhu cầu việc làm hợp lý cho người lao động mà cần phải trải qua
một quá trình lâu dài.
- Thất nghiệp:
Gắn liền với khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp. Theo Tổ chức
lao động quốc tế (ILO). “thất nghiệp là
tình trạng tồn tại khi số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng
không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành” [5, tr.57]. Nhìn chung khi xác định thất nghiệp
các bước đều căn cứ vào định nghĩa này của ILO. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều
kiện của mỗi nước mà đưa ra những tiêu chí khác nhau để xem xét người lao động
có thất nghiệp hay không. Thông thường 02 tiêu chí được sử dụng phổ biến là:
(01) xác định giới hạn tuổi của lực lượng lao động; (02) có đăng ký hay không
đăng ký thất nghiệp. Ở Việt Nam do chưa thực
hiện tổ chức đăng ký thất nghiệp, nên việc có đăng ký thất nghiệp hay không
chưa được xem là tiêu chí dùng để xác định người thất nghiệp. Khái niệm người
thất nghiệp ở nước ta được hiểu là những
người trong độ tuổi lao động, ó khả năng lao động, trong tuần lễ tham khải
không có việc làm, đang có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc ở mức tiền
lương hợp lý nhưng không tìm được việc làm. Thất nghiệp là một hiện tượng
kinh tế-xã hội rất đa dạng và phức tập. Do đó, trong thực tế tồn tại rất nhiều
loại hình thất nghiệp khác nhau tùy theo cách tiếp cận.
+ Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp:
Thất nghiệp tạm thời: Là thất nghiệp xảy ra khi có một số người lao động tạm thời không có việc
làm do sự di chuyển không ngừng của người lao động giữa các vùng, giữa các loại
công việc hoặc giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Loại thất nghiệp này
xảy ra ở mọi xã hội, trong bất kỳ thời điểm nào, chỉ có sự khác nhau về quy mô,
số người và thời gian thất nghiệp.
Thất nghiệp cơ cấu:
là loại thất nghiệp xảy ra khi cơ cấu kinh tế, công nghệ sản xuất có sự thay
đổi trong khối cơ cấu lao động không kịp thời; khi có sự mất cân đối cung-cầu
giữa các loại lao động, khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động không
theo kịp cầu lao động. Loại thất nghiệp này xảy ra phổ biến ở các đô thị khi mà
tốt độ tự động hóa, HĐH của công nghệ quá nhanh. Nó trở nên trầm trọng khi biến
động mạnh và kéo dài.
Thất nghiệp thiếu cầu: (còn gọi là thất nghiệp kiểu Keynes): Loại thất nghiệp này xảy ra khi có
sự suy giảm trong tổng cầu, kéo theo mức cầu chung về lao động giảm xuống trong
khi tiền lương và giá cả cứng nhắc không điều chỉnh kịp.
+ Căn cứ vào mức độ hợp lý của việc
làm thì có các loại thất nghiệp sau:
Thất nghiệp tự nguyện: là thất nghiệp của những người không muốn làm việc do việc làm và mức
lương tương ứng chưa phù hợp với mong muốn của người lao động.
Thất nghiệp không tự nguyện: là thất nghiệp của những người muốn làm việc ở mức tiền lương hiện hành
nhưng không có việc để làm.
+ Căn cứ vào đặc điểm của các nhóm dân cư có thể có các loại thất
nghiệp theo nhân khẩu (giới tính, độ tuổi, dân tộc, quy mô, kiểu hộ gia đình),
thất nghiệp theo vùng lãnh thổ, thất nghiệp theo khu vực nông thôn, thành thị…
- Quan niệm về giải quyết việc làm:
Việc làm là một dạng hoạt động
kinh tế-xã hội, hoạt động đó không chỉ là kết quả của hành vi kết hợp giữa sức
lao động với tư liệu sản xuất một cách giản đơn mà là một quá trình. Trong quá
trình đó đòi hỏi sức lao động và tư liệu sản xuất không ngừng phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, đó mới là điều kiện cần, muốn có sự kết hợp
đó diễn ra và không ngừng phát triển thì cần phải tạo ra cho được sự phù hợp cả
số lượng và chất lượng giữa sức lao động và tư liệu sản xuất và một môi trường
với những điều kiện kinh tế-xã hội thuận lợi cần thiết đảm bảo cho họat động
diễn ra. Do đó, giải quyết việc làm có
thể hiểu ttheo nghĩa rông là tổng thể
những biện pháp, chính sách kinh tế-xã hội của nhà nước, cộng đồng và bản thân
người lao động tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận
lợi nhằm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có việc làm đầy đủ và
hợp lý. Như vậy, nội dung của giải quyết việc làm bao gồm toàn bộ những vấn
đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Quá
trình đó diễn ra từ giáo dục-đào tạo, phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người
lao động bước vào cuộc đời lao động, cho đến tự do lao động, tái sản xuất sức
lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao động mà mình làm ra.
- Đô thị hóa:Khái niệm, đặc trưng:
Thuật ngữ đô thị hóa (ĐTH) đã
xuất hiện từ thời cổ đại, nó gắn liền với việc thừa nhận ngày càng phổ biến vai
trò và tầm quan trọng của các đô thị đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. ĐTH
là một quá trình kinh tế-xã hội, lịch sử mang tính quy luật trên quy mô toàn
cầu. Ngày nay, ĐTH chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp với nhiều hiện tượng và biểu
hiện dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau của một xã hội hiện đại. Do đó, nó
là đối tượng nghiên cứu của không ít các ngành khoa học trong nỗ lực xây dựng
các cơ sở khoa học cho việc quy hoạch, phát triển và quản lý đô thị. Theo đó
cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về ĐTH.
Theo cách tiếp cận của nhân
khẩu học và địa lý kinh tế thì ĐTH chính
là sự di cư từ nông thôn vào thành thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư
sống trong lãnh thổ địa lý hạn chế được gọi là các đô thị. Đó cũng là quá
trình gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân của một quốc gia. Với cách
tiếp cận này thì dường như tỷ lệ phần trăm dân số đô thị trên tổng dân số là
chỉ tiêu duy nhất để đo lường mức độ ĐTH. Và như vậy, nó sẽ không thể giải
thích nổi tầm quan trọng và vai trò của ĐTH cũng như ảnh hưởng của nó đến sự
phát triển kinh tế-xã hội hiện đại.
Theo cách tiếp cận xã hội học,
ĐTH được hiểu rộng hơn đó là quá trình tổ
chức lại môi trường cư trú của nhân loại; là sự thay đổi những phương thức hay
hình thức cư trú của nhân loại. Điều này có nghĩa là ĐTH không chỉ thay đổi
phương thức sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế mà còn là sự thay đổi lớn
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, trong đó các mối quan hệ xã
hội, các mô hình hành vi và ứng xử tương ứng với điều kiện sống CNH, ĐTH và HĐH
[33, tr.80].
Theo quan điểm một vùng ĐTH là một quá trình hìh thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Theo quan niệm nền kinh tế
quốc dân, ĐTH là quá trình biến đổi về sự phân bố các yếu lực
lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng
không phải là là đô thị thành đô thị [59, tr12].
Tuy có nhiều cách tiếp cận với
nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm ĐTH, song ngày nay khi mà ĐTH gắn liền
với CNH đang diễn ra mạnh mẽ và phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới thì
nhiều nhà khoa học ngày càng ngã sang cách hiểu ĐTH là quá trình mang tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và có cấu từ nông nghiệp-nông dân-nông thôn sang công nghiệp-thị dân-đô
thị, với những đặc trưng sau:
Một là,ĐTH không phải
là kết quả mà là một quá trình lâu dài diễn ra trên một không gian lãnh thổ
rộng lớn.
Hai là, tiền đề cơ
bản của ĐTH là sự phát triển công nghiệp hay CNH, HĐH. Bởi lẽ, trong quá trình
ĐTH có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang sản
xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Ba là, ĐTH là quá
trình hình thành, nâng cấp và mở rộng quy mô đô thị với sơ sở hạ tầng hiện đại.
Bốn là, các làn sóng
di cư nông thôn-đô thị làm tăng nhanh quy mô dân đô thị, chuyển từ lối sống
phân tán-mật độ dân số thừa sang lối sống tập trung-mật độ dân số cao, dẫn đến
sự bố trí lại dân cư, thay đổi cơ cấu giai cấp, phân tầng xã hội.
Năm là, không gian đô
thị ngày càng mở rộng và cùng với nó là sự thu hẹp đất nông nghiệp để nhường
chổ cho các khu công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du lịch, khu đô thị mới.
Sáu là, tốc độ và quy
mô hội tụ kinh tế đô thị ngày càng gia tăng, thể hiện ở tốc độ và quy mô thu
hút vốn đầu tư, số lượng và quy mô các đơn vị kinh tế, …
Bảy là, chuyển từ lối
sống nông thôn sang lối sống thành thị, từ văn hóa làng, xã sang văn hóa đô
thị, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.
Tám là, cùng với quá
trình ĐTH là sự đổi mới cơ chế, chính sách phát triển và quản lý đô thị.
Ngoài những đặc trưng chung
trên, quá trình ĐTH của Việt Nam trong lịch sử có một đặc trưng nổi bậc gắn
liền với đặc điểm của nước nông nghiệp truyền thống, đó là ĐTH có tính chất
không điển hình. Tính chất không điển hình này có nguồn gốc từ sự tồn tại đan
xen, hòa trộn giữa nông thôn và thành thị ở mọi phương diện, từ không gian địa
lý, cơ sở hạ tầng, dân cư, tôn giáo, văn hóa cho đến các hoạt động kinh tế.
Làng trong phố, phường, cư dân nông thôn hoạt động nông nghiệp với phong cách,
nếp sống làng, xã truyền thống ngày nay vẫn còn đang hiện hữu ngay trong lòng
hầu hết các đô thị Việt Nam.
Mức độ ĐTH (hay còn gọi là
trình độ ĐTH) gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội.
về mặt lý thuyết mức độ ĐTH thường được đo lường bằng các tiêu chí sau:
+ Mức độ tập trung dân số: Mật
độ dân số, quy mô dân số và tỷ trọng dân số trong khu vực đô thị.
+ Tỷ lệ phần trăm (%) lực lượng
lao động pghi nông nghiệp.
+ Mức độ hiện đại của cơ
sở hạ tầng.
+ Tỷ lệ phần trăm (%) kinh tế
phi nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế đô thị.
+ Vai trò trung tâm hành
chính, văn hóa, chính trị, kinh tế tại các vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên, trong thực tế vì
không có đủ các thông tin chi tiết cần thiết để xác định và đo lường mức độ
ĐTH, phân loại đô thị. Thông thường để đo lường mức độ ĐTH và phân loại đô thị
có một cách phân loại chính thức dựa trên các tiêu chí như quy mô và mật độ dân
số đô thị. Theo đó, các đô thị ở nước ta hiện nay được phân thành 5 (năm) loại,
bao gồm từ đô thị loại 1 đến đô thị loại 5. (Xem phụ lục 7).
1.1.2. Tác động của đô thị hóa đến việc làm
Một là, ĐTH tạo mở nhều việc làm mới:
- ĐTH tạo mở nhiều việc làm mới trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng,
thương mại và dịch vụ. Để
tiến hành ĐTH đòi hỏi phải thúc đẩy xây dựng, cải tạo, phát triển cở hạ tầng kỹ
thuật với việc hình thành các khu công nghiệp, khu di lịch thương mại, khu đô
thị mới ngày càng hiện đại. Cơ sở hạ
tầng kỹ thuật hiện đại sẽ kích thích gia tăng hội tụ các nguồn lực đầu tư cho
sản xuất thú đẩy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp diễn ra ngày càng sôi động,
đa dạng hóa và phát triển các ngành nghề công nghiệp, xây dựng, thương mại và
dịch vụ, … đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH từ đó mở
nhiều việc làm mới trong công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ.
- ĐTH tạo mở nhiều việc làm trong khu vực kinh tế không chính thức:
ĐTH thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của cư dân đô
thị làm nảy sinh các nhu cầu ngày càng cao về vật chất và tinh thần. Để đáp ứng
nhu cầu đó đòi hỏi sản xuất và dịch vụ phải được mở rộng, kéo theo sự phát
triển đa dạng các ngành nghề, tạo mở nhiều việc làm mới. Trong đó, đáng chú ý
là sự hình thành và phát triển một cách tự phát khu vực kinh tế không chính
thức với những hoạt động kinh tế quy mô nhỏ, không đăng ký, không đòi hỏi trình
độ chuyên môn kỹ thuật như bán hàng rong, các dịch vụ, buôn bán nhỏ tại nhà,
vỉa hè, giúp việc gia đình, lao động tự do,… sự phát triển của khu vực kinh tế
không chính thức sẽ tạo ra nhiều việc làm tạm góp phần giải quyết việc làm cho
một lực lượng lao động không nhỏ không có tay nghề, lao động nhập cư, lao đọng
nông nghiệp thuộc diện thu hồi đất sản xuất, lao động dôi dư do sắp xếp lại các
đơn vị kinh tế,…
- ĐTH làm tăng chỗ việc làm tạm do quy hoạch mở rộng không gian đô thị, cải
tạo, nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Để tiến hành ĐTH đòi hỏi quy hoạch mở rộng không
gian đô thị, cải tạo, nâng cấp, xây dựng cở hạ tầng kinh tế. Theo đó, nhiều
việc làm tạm thời trong lĩnh vực xây dựng và dịch vụ nhỏ được tạo ra nhu phụ hồ,
xe thồ,… với sự xuất hiện của những chỗ việc làm tạm thời này sẽ góp phần giải
quyết việc làm cho những lao đông chân tay, không có trình độ chuyên môn kỹ
thuật,…
- Ngoài ra ĐTH còn thúc đẩy
thực hiện các chương trình CNH, HĐH ở khu vực nông thôn, đặc biệt là sự phát
triển công nghiệp chế biến và đa dạng hóa các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.
Từ đó, thu hút một bộ phận lao động nông nhàn, lao động dư thừa từ nông nghiệp
(do không còn đất nông nghiệp để canh tác) vào làm việc và tăng thời gian làm
việc ở khu vực nông thôn.
Hai là, ĐTH làm thay đổi cơ cấu việc làm:
Trong quá trình ĐTH do có sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp,
thương mại và dịch vụ mà cơ cấu việc làm thay đổi mạnh mẽ. Cùng với sự phát
triển kinh tế đô thị, cơ cấu việc làm thay đổi theo các xu hướng khách quan
sau:
- Tăng chỗ việc làm trong lĩnh
vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm chỗ việc làm trong lĩnh vực nông
nghiệp.
- Tăng chỗ việc làm đòi hỏi
trình độ lao động cao, giảm chỗ việc làm đòi hỏi trình độ lao động thấp, nhất
là lao động phổ thông.
- Tăng chỗ việc làm có năng
suất, thu nhập cao, giảm chỗ làm việc có năng suất, thu nhập thấp.
Sự thay đổi có cấu việc làm
trong quá trình ĐTH theo xu hướng trên đây xuất phát từ sự gia tăng hội tụ các
hoạt động kinh tế phi nông nghiệp ở đô thị khi mà những lợi thế và các nguồn
lực dồi dào ở đô thị ngày càng được tận dụng khai thác tối đa như: chi phí giao
dịch thấp, giao thông vận tải thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại, nguồn vốn đầu
tư cho sản xuất phi nông nghiệp hội tụ ngày càng nhiều thông tin, tiến bộ khoa
học kỹ thuật,… Ở khía cạnh khác, việc tiến hành thực hiện những nội dung để đẩy
mạnh ĐTH như quy hoạch mở rộng không gian đô thị, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ
tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, đường xá, xây dựng các khu thương mại, dịch
vụ tập trung, thực hiện thay thế lao động thủ công bằng cơ khí, tăng cường áp
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển tự động hóa nhiều lĩnh vực,
ngành nghề… cũng là tác nhân trực tiếp làm thay đổi cơ cấu việc làm.
Ba là, ĐTH mở rộng khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm của người
lao động. Khả năng tự tạo
việc làm và tìm kiếm việc làm của người lao động được mở rộng chủ yếu là do:
- Trình độ người lao động ngày càng
được nâng cao: Trước yêu
cầu trình độ lao động ngày càng cao và áp lực về việc làm do dân số, lao động
hội tụ ngày càng đông ở đô thị theo xu hướng ĐTH, một bộ phận người lao động,
nhất là lao động trẻ buộc phải tự trang
bị cho mình một trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Do đó, trong quá trình
ĐTH tự phát sẽ hướng một bộ phận lao động tham gia vào các chương trình giáo
duc, đào tạo. Đồng thời, cùng với quá trình ĐTH là việc chuyển biến nhận thức
về dân số và kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy, những người lao động và người thân
trong gia đình có điều kiện thuận lợi hơn về thời gian, tiền bạc, công sức,…để ưu
tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nâng cao trình độ lao động, vừa làm giảm áp
lực về nhu cầu phải giải quyết việc làm hiện tại ở đô thị vừa nâng cao khả năng
tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm trong tương lai cho bản thân và con em
họ.
- Dưới tác độngcủa ĐTH thị trường lao động sôi động hơn. Tốc độ ĐTH càng cao thì tốc độ tăng trưởng
việc làm và tốt độ hội tụ dân số và lao động ở đô thị có quy mô càng lớn. Sự
gia tăng về cả hai phía cung và cầu lao động cùng với môi trường kinh tế năng
động như đô thị chính là những điều kiện cơ bản để phát triển mạnh mẽ các hoạt
động tư vấn, giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thoongtin thị
trường lao động,… Vì vậy, người lao động có điều kiện thuận lợi để tiếp cận các
dịch vụ việc làm, thiết lập, mở rộng các mối quan hệ làm ăn và thực hiện các
giao dịch trên thị trường lao động.
Bốn là, ngoài tác động tích cực trên ở góc độ việc làm, ĐTH có thể làm
gia tăng tình trạng thất nghiệp, vì:
- ĐTH làm cho một bộ phận người lao động diện thu hồi đất nông nghiệp và
mặt bằng sản xuất rơi vào tình trạng thất nghiệp. Quy hoạch sử dụng đất theo theo hướng chuyển đổi
mục đích sử dụng từ phục vụ sản xuất nông nghiệp sang phục vụ sản xuất công
nghiệp, thương mại, dịch vị và quy hoạch chung tình trạng đô thị trong quá
trình ĐTH sẽ làm xuất hiện một bộ phận không nhỏ những người lao động diện thu
hồi đất sản xuất (đất sản xuất nông nghiệp và mặt bằng sản xuất, kinh doanh các
ngành nghề phi nông nghiệp) mất việc làm hoặc buộc phải chuyển đổi việc làm.
Đối với nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu thương
mại, du lịch, các khu đô thị mới thì coi như mất tư liệu sản xuất, không còn kế
sinh nhai. Đại đa số họ có trình độ học vấn thấp, không có tay nghề, không có
vốn để tự tổ chức việc làm. Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm, lối sống của họ
còn mang nặng sắc thái văn hóa nông thôn, làng, xã truyền thống nên rất hạn chế
trong khả năng thiết lập các mối quan hệ công ăn, việc làm, khả năng tiếp cận
các dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống đô thị, khả năng thích
ứng kịp thời thời với sự biến đổi nhanh chóng của quá trình ĐTH khi mà bổng
chốc họ trở thành những cư dân đô thị sau những quyết định hành chính mở rộng
ranh giới, không gian đô thị. Những vấn đề trên đây đã cản trở nhóm dân cư này
trong việc tìm kiếm cơ hội chuyển đổi việc làm mới, biến họ trở thành những
người thất nghiệp ngay chính trên quê hương mình.
- Thực hiện DDGT, thay đổi nơi cư trú có thể làm cho người lao động khó
khăn trong việc tự tạo việc làm, chuyển đổi việc làm và tìm kiếm việc làm. Điều
này được thể hiện ở hai khía cạnh chủ yếu:
Trước hết ĐTH làm thay đổi
chức năng của nhà ở. Ở đô thị, nhà ở là tài sản giá trị nhất của người dân. Nó
không chỉ có chức năng để ở, cư trú mà còn có chức năng kinh tế rất quan trọng.
Tuy nhiên, nếu nhà ở của họ thuộc diện DDGT thì đồng nghĩa với việc họ mất việc
làm, mất nguồn thu nhập từ nhà ở của mình.
Thứ hai là, ĐTH làm thay đổi
về việc làm thu nhập của người lao động hoạt động trong khu vực kinh tế không
chính thức. Việc cải tạo, chỉnh trang đô thị, DDGT trong quá trình ĐTH nhìn
chung là có tác động tích cực đến việc hình thành và thúc đẩy khu vực kinh tế
không chính thức phát triển. Tình trạng việc làm của các hộ sau khi giải tỏa bị
chuyển đến tại các khi TĐC mới cách xa nơi ở cũ hoặc lên sống tại các nhà trọ, nhà tạm bợ, nên gặp khó khăn rất nhiều trong
việc tiếp tục các công việc buôn thúng, bán bưng so với môi trường cũ đã quen
thuộc. Sự xa cách về địa lý so với nơi ở cũ cũng gây bất tiện cho một số lao
động trong việc tiếp tục làm việc ở các đơn vị kinh tế tư nhân, làm nông, ngư
nghiệp, ...như cũ. Khi chuyển đến nơi ở mới, do các mối quan hệ làm ăn và các
mối quan hệ xã hội khác chưa kịp thiết lập, đồng thời những người có các mối
quan hệ làm ăn cũ với họ trước đây cũng
ngại tìm tới họ để kêu đi làm mà lý do chủ yếu là xa xôi, trong khi đó nguồn
cung cấp lao động sẳn sàng làm việc. Những vấn đề trên đây là nguyên nhân của
việc xuất hiện hiện tượng có không ít trường hợp người lao động cố quay về địa
bàn cũ để làm ăn, vì vậy gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý đô thị
nói chung và quản lý lao động-việc làm nói riêng.
- ĐTH làm cho một bộ phận người lao động không kịp đáp ứng yêu cầu về
trình độ của sản xuất:
ĐTH, CNH, HĐH thúc đẩy quá
trình sắp xếp, cơ cấu lại các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp nhà nước và thực hiện thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ
khí, phát triển tự động hóa ở nhiều lĩnh vực, ngành, nghề, làm giảm chỗ việc
làm yêu cầu trình độ lao động thấp, do đó xuất hiện một bộ phận không nhỏ lao
động dôi dư không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất sẽ bị mất việc. Hiện nay, ở
hầu hết các đô thị lớn ở nước ta có nhu cầu về lao động không thể đáp ứng một
cách thỏa đáng yêu cầu của những chỗ việc làm đó.
- Lao động nhập cư gây sức ép về việc làm ở đô thị: Do chênh lệch về
phát triển kinh tế-xã hội giữa khu vực nông thôn và khu vực đô thị mà hình
thành nên lực đẩy ở khu vực nông thôn và lực hút ở khu vực đô thị. Mức độ ĐTH
càng cao, chênh lệch về phát triển kinh tế-xã hội giữa nông thôn và thành thị
càng lớn, các luồng nhập cư này là hiện tượng khách quan trong quá trình ĐTH,
nó có vai trò rất to lớn trong việc cung cấp nguồn nhân lực cho sự phát triển
của các đô thị. Điều này không chỉ làm gia tăng sức ép về vấn đề nhà ở, cơ sở
hạ tầng, y tế, giáo dục, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường… mà còn làm trầm
trọng hơn vấn đề thất nghiệp đô thị, tạo thêm một nhóm người thất nghiệp nhập cư bổ sung vào
đội quân thất nghiệp ở đô thị.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆT GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở
khu vự đô thị:
Việc làm và thu nhật là yêu
cầu đầu tiền của mọi người dân, nhất là đối với dân cư đô thị khi mà hằng ngày
mọi nhu cầu chỉ tiêu của họ luôn phụ thuộc vào mức thu nhập và sự biến động của
giá cả thị trường. Vì vậy, nhu cầu chỉ tiêu của thị dân thường cao hơn nhiều so
với nhu cầu chỉ tiêu của người dân ở khu vực nông thôn. Hơn nữa, cùng với việc
gia tăng tốc độ ĐTH là sự gia tăng quy mô dân số, nguồn lao động làm trầm trọng
hơn tình trạng thất nghiêp, thiếu việc làm. Đây là vấn đề nan giải đang tạo ra
áp lực rất lớn đối với chính quyền các cấp, cộng đồng và người lao động ở đô
thị. Do đó, giải quyết tốt việc làm cho mọi cư dân đô thị là vấn đề hết sức cấp
bách.
- Tăng thu nhập, cải thiện
đời sống dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội:
ĐTH thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, tăng nhanh chổ làm việc trong công nghiệp, thương mại và dịch vụ với năng
suất và tiền lương, tiền công thực tế ngày càng cao. Do đó, giải quyết tốt vấn
đề việc làm cho người lao động sẽ làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cư dân
đô thị. Quy hoạch đô thị, DDGT, bố trí lại nơi cư trú, phát triển kinh tế hạ
tầng, ...đã mở ra nhiều cơ hội thị trường cho những người biết nắm lấy cơ hội,
nhất là những người giàu có, khá giả, có kiến thức. Ngược lại, những người
nghèo đa số là những nông dân bị mất đất, không có vốn, trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật thấp, hạn chế trong khả năng thiết lập các mối quan hệ xã
hội, để học nghề và tham gia vào thị trường lao động đã nghèo lại nghèo hơn và
khả năng tiếp cận các nguồn lực do quá trình ĐTH mang lại cũng kém đi. Do đó,
giải quyết tốt vấn đề việc làm trong qua trình ĐTH không chỉ tăng thu nhập,
nâng cao mức sống cho người dân, đặc biệt là ngươii nghèo đô thị-những người
nhạy cảm với những tác động của ĐTH mà còn góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Nâng cao chất lượng nguồn
nâng lực ở đô thị, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng CNH, HĐH:
Giải quyết việc làm. nâng cao
thu nhập không chỉ thúc đẩy
và tạo điều kiện cho người lao động tích cực tự đào tạo, trao dồi kỹ năng, nghề
nghiệp mà còn nâng cao mức sống. Khi mức sống nâng cao lên thì sức khoẻ của
người lao động được cải thiện, nhận thức của họ về dân số, kế hoạch hoá gia
đình cũng có những thay đổi tích cực. Với mô hình gia đình ít con theo kiểu đô
thị, họ sẽ thuận lợi hơn về thời gian, tiền bạc, thông tin, khả năng tiếp cận
các dịch vụ cộng đồng ... để đầu tư nhiều hơn cho việc học hành, đào tạo nghề
cho bản thân và người thân nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn lao động
ngày vàng cao trong quá trình ĐTH. Ví dụ, ở khu vực đô thị nước ta, giai đoạn 1996-2003 tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật tăng rất nanh từ 31,59% năm 1996 lên 45,46 năm 2003,
con số này cao hơn nhiều ở khu vực nông thôn và chung của cả nước (tỷ lệ lực
lượng lao đọng có trình độ chuyên môn, kỹ thuật năm
2003 ở khu vực nông thôn là 13,47%, chung cả
nước là 21,15%). [3, tr.31].
Cùng với quá trình ĐTH là quá
trình CNH nên đã tạo ra nhiều chỗ làm việc trong công nghiệp. Thông qua giải
quyết việc làm mà chất lượng nguồn lao động được nâng lên, cơ cấu lao động
chuyển dịch theo hướng tiến bộ, cho phép tận dụng khai thác tối đa các lợi thế
và các nguồn lực ở đô thị như phát huy hiệu quả kinh tế theo quy mô, chi phí
giao dịch thấp, giao thông vận tải thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại, nguồn vốn
đầu tư cho sản xuất hội tụ ngày càng nhiều, thông tin, tiến bộ khoa học, kỹ
thuật,... việc tập trung sử dụng tốt đa các nguồn nhân lực hội tụ ở đô thị sẽ
tạo điều kiện cho công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Góp phần khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực lao động cho tăng trưởng
kinh tế đô thị:
Theo quá trình ĐTH, tốc độ và
quy mô hội tụ các nguồn lực như khoa học, công nghệ, vốn lao đông ngày càng lớn
cả số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, các nguồn lực này chỉ ở dạng tiềm năng
nếu như chúng không được khai thức sử dụng một cách có hiệu quả. Giải quyết tốt
vấn đề việc làm một mặt thông qua tiêu dùng sức lao động sẽ kích thích nâng cao
chất lượng lao động, mặt khác sẽ cho phép khai thác được tối đa và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đô thị. Theo
định luật OKUN được Arthur M. Okun, nguyên chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế
trong chính quyền của nguyên Tổng thống Mỹ Johson lần đầu tiên đưa ra vào năm
1960 rằng: Có một mối quan hệ thường xuyên âm (nghịch chiều) giữa tỷ số đầu tư
(Q/QN) và số chênh lệch giữa các mức thất nghiệp thực tại và tự
nhiên. Định luật OKUN được biểu diễn dưới dạng hàm số tuyến tính tổng quá như
sau:
U = UN - h [100
(Q/QN) - 100]
Trong đó: U là tỷ lệ thất
nghiệp thực tại; UN là tỷ lệ thất nghiệp thực tại tự nhiên; Q là GTP
thực tế; QN là GNP thực tế tự nhiên
Đồ thị 1.2.: Đường Okun [ 46, tr. 476]
![]() |
Như vậy, giải quyết tốt vấn đề
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển.
- Giảm các tệ nạn xã hội:
Giải quyết việc làm, duy trì
tỷ lệ thất nghiệp có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ đối với phát triển kinh
tế đô thị mà còn đối với sự phát triển xã hội đô thị. Đặc biệt, quá trình ĐTH
nước ta đang diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang chuyển sang cơ chế
kinh tế thị trường, các tệ nạn hội đang trở thành vấn đề rất nghiêm trọng mà
một trong những nguyên nhân chủ yếu nhất là do không giải quyết tốt vấn đề việc
làm để tình trạng thất nghiệp diễn ra phổ biến ở một số đô thị.
Qua kết quả điều tra đã đi đến
kết luận rằng số người thất nghiệp tham gia vào các tệ nạn xã hội chiếm một tỷ
lệ đáng kể. Các tệ nạn mà người thất nghiệp thường tham gia là ma túy, mại dâm,
trộm cắp, dâm thuê chém mướn trong xã hội đen.. Bởi lẽ, đối với người lao động,
thất nghiệp là mất nguồn thu thập, mất kế sinh nhai, suy giảm mức sống, chất
lượng sống dẫn đến nghèo đói. Khi thất nghiệp, người lao động nhất là những
người nghèo và người thân trong gia đình họ không có đủ thu nhập để tiếp cận và
hưởng thụ những những giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội mang lại, như ăn
uống, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao,.. làm nới rộng
khoảng cách giàu nghèo, gấy bất bình đẳng xã hội. Đặc biệt, đối với người lao
động ở đô thị thì vấn đề thất nghiệp trở nên nghiêm trọng hơn rất nhiều. Bởi
lẽ, ở xã hội đô thị dưới tác động của cơ chế kinh tế thị trường, thị dân luôn
phải đối diện với nhu cầu ocư bản của cuộc sống mà nó còn có chức năng đại diện
cho những giá trị tinh thần của một xã hội tiêu dùng kiểu đô thị. Một khi những
nổ lực tìm tím kiếm những việc làm chính đáng mà pháp luật không cấm không còn
cơ hội thì những việc làm phi pháp, những tệ nạn xã hội là chỗ người thất
nghiệp bấu víu để tồn tại và xoa diệu sự tổn thương về tinh thần.
Những phân tích trên đã cho
thấy để làm giảm các tệ nạn xã hội góp phần thúc đẩy xã hội đô thị phát triển
thì vấn đề cần quan tâm hàng đầu là giải quyết việc làm cho người lao động.
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ
HÓA
Hiệu quả của giải quyết việc
làm trong quá trình ĐTH chịu sự tác động của rất nhiều nhóm nhân tố tùy theo
quan niệm và góc độ tiếp cận. Song với quan niệm rằng, chủ thể giải quyết việc
làm bao gồm Nhà nước, các doanh nghiệp, cộng đồng và bản thân người lao động
nên ở đây giải quyết việc làm không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực chủ quan của Nhà
nước, các doanh nghiệp, cộng đồng và bản thân người lao động mà còn phụ thuộc
vào những nhân tố khách quan nảy sinh trong quá trình ĐTH. Với ý nghĩa đó, ảnh
hưởng đến giải quyết việc làm có thể được tiếp cận từ những khía cạnh khác nhau
của các nhân tố chủ quan và khách quan như sau:
- Nhân tố chính sách:
Các chính sách liên quan chặt
chẽ đến hiệu quả giải quyết việc làm bao gồm: chính sách quản lý di cư, chính
sách giáo dục, đào tạo, chính sách y tế, chính sách tiền lương, chính sách dân
số, chính sách đất đai, nhà ở,…Các chính sách này không chỉ tác động trực tiếp
đến quy mô số lượng, chất lượng, nguồn lao động đô thị mà còn tác động đến số
lượng và chất lượng những chỗ việc làm mới được tạo ra. Ở đây có thể nêu ra tác
động của một vài chính sách đến giải quyết việc làm.
+ Chính sách tiền lượng: Trên thị trường lao động, mọi giá cả sức lao
động thể hiện ở tiền lương, tiền công. Tuy nhiên, trong thực tế ở mức độ nào đó
Nhà nước có thể can thiệp một cách gián tiếp đến việc hình thành tiền lương,
tiền công. Chẳng hạn, để bảo vệ lợi ích của người lao động và dưới áp lực của
các tổ chức công đoàn, hiepẹ hội ngành nghề của những người lao động, Nhà nước
có thể quy định mức lương tối thiểu ở mức cao. Với việc quy định mức lương tối
thiểu cao năng suất lao động, gia tăng sản lượng. Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tạo mở ra nhiều việc làm mới ở các khu vực kinh tế chính sách và khu
vực kinh tế không chính sách góp phần giải quyết việc làm. Tuy nhiên, với tiền
lương, tiền công cao ở khu vực thành thị cũng sẽ là một trong những lực hút
mạnh mẽ làn sóng lao động cho đô thị, đáp ứng cho yêu cầu tăng trưởng, phát
triển kinh tế nhưng đồng thời nó cũng bổ sung thêm vào nguồn lao động không có
tay nghề ở đô thị, làm trầm trọng hơn tình trạng thất nghiệp ở đô thị.
+ Chính sách giáo dục, đào tạo: Một chính sách giáo dục đào tạo tốt
ít nhất phải hội tụ đủ hai tiêu chuẩn cơ bản nhất, một là, cung cấp đủ số lượng
lao động cho số lượng việc làm được tạo ra: hai là, cơ cấu về giáo dục đao tạo,
bao gồm cơ cấu về giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, cơ cấu về
ngành nghề đào tạo, theo vùng, khu vực….phải phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng ĐTH. Do vậy, khi có được một chính sách phát triển giáo dục
đào tạo tốt sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi cho giải quyết việc làm. Ngược
lại, một khu chính sách giáo dục đào tạo có nhiều hạn chế, khiếm khuyết thì sẽ
không chuẩn bị tốt nguồn nhân lực trên cả ba phương diện: số lượng, chất lượng
và cơ cấu đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển kinh tế-xã hội, gây cản trở không
nhỏ cho giải quyết việc làm nhất là giải quyết việc làm ở khu vực đô thị.
+ Chính sách đất đai, nhà ở: Nhà ở, đất đai, vị trí nơi cu trú ở đô
thị khôngchỉ là tài sản có chức năng cư trú mà còn có chức năng kinh tế. Vì
vậy, chính sách nhà ở, đất đai, phát triển cơ sở hạ tầng ở đô thị tác động rất
mạnh mẽ đến việc hình thành và thay đổi chức năng kinh tế của nhà ở, đất đai,
vị trí nơi cư trú,…do đó nhóm chính sách này cũng tác động đến số lượng và cơ
cấu việc làm có khả năng được tạo ra.
+ Chính sách quản lý di dân: Di dân là xu hướng tất yếu tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội đô thị. Tuy nhiên, chính sách ở một số đô thị nước ta hiện nay do chưa nhận
thức một cách đầy đủ vai trò của các làn
sống nhập cư và do sức ép quá lớn của các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá
trùnh ĐTH nên trong các chính sách quản lý di dân thường gắn liền các thủ tục
hành chính, pháp lý về nhân khẩu như hộ khẩu, đăng ký tạm trú, tạm vắng,…với
việc giải quyết cácchính sách xã hội đô thị. Điều nay gây ra tình trạng kỳ thị,
phân việt đối xử dân nhập cư, dựng lên những rào cản thủ tục hành chính không
đáng có làm hạn chế quyền lợi của dân nhập cư như: Nhà ở, điện nước, việc
làm,…Vì vậy, muốn khơi dậy và huy động được mọi nguồn lực lao động thông qua
các chính sách quản lý di dân thì chính sách quyền các cấp ở đô thị cần phải xóa
bỏ sự phân biệt đối xử trong các chính sách xã hội ở đô thị, nhất là chính sách
lao động-việc làm.
- Nhân tố lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế và lựa chọn công
nghệ:
Ở phương diện lý thuyết, lựa
chọn mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế tức là nghiên cứu lựa chọn các
hình thức khai thác và sử dụng các nguồn lực: vốn, khoa học, công nghệ, lao
động, tài nguyên thiên nhiên. Do đó. nền kinh tế khai thác và sử dụng nhiều hay
ít lao động là do sự lựa chọn mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế quyết
định. Điều này cũng có nghĩa, việc sử dụng nhiều hay ít lao động cho quá trình
sản xuất phụ thuộc vào cơ cấu kết hợp các nguồn lực và khả năng thay thế lẫn
nhau giữa nguồn lực lao động với các nguồn lực khác.
Đối với việc lựa chọn cồn nghệ
cho mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế thì lựa chọn công nghệ càng hiện
đại, mức độ tự động hóa cao, cần nhiều vốn sẽ làm giảm chỗ việc làm năng suất
thấp cần nhiều lao động thủ công và tăng chỗ việc làm có chất lượng, năng suất
cao cần lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Việc lựa chọn công nghệ hiện
đại tác động đến giải quyết việc làm thông qua cầu lao động, theo hai hướng
khác nhau:
+ Giảm cầu lao động, nhất là
cầu lao động có trình độ thấp, tăng nguy có thất nghiệp.
+ Tăng cầu lao động, khi công
nghệ càng cao năng suất lao động tăng, chi phí lao động giảm, tức là lợi nhuận
tăng, nâng cao được quy mô tích lũy vốn tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tạo ra
nhiều chỗ làm mới, tạo điều kiện thuận lợi cho giải quyết việc làm.
- Tốc độ CNH, HĐH và tốc độ, quuy mô hội tụ kinh tế đô thị:
Song song với quá trình ĐTH là
quá trình CNH. Tốc độ CNH nhanh hơn tốc độ ĐTH sẽ tạo ra nhiều việc làm có năng
suất cao, giảm được tình trạng thất nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình đó cũng
tiềm ẩn những nguy cơ người lao động bị mất việc khi chất lượng của một bộ phận
người lao động không đáp ứng kịp yêu cầu của những thay đổi về công nghệ sản
xuất và cơ cấu nguồn lao động không theo kịp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH. Khi tốc độ CNH chậm hơn tốc độ ĐTH, số lượng việc làm mói
được tạo ra sẽ không đủ đáp ứng nhu cầu việc làm cho số lượng lao động được
tăng thêm, lúc đó sẽ dư thừa lao động gây ra tình trạng thất nghiệp.
Tốc độ và quy mô hội tụ kinh
tế đô thị là nhân tố tổng hợp tác động trực tiếp đến tăng trưởng phát triển
kinh tế đô thị. Nó thể hiện mức độ tập trung ngày càng cao các nguồn lực cho
phát triển kinh tế đô thị và mức độ sôi động của các hoạt động kinh tế ở đô
thị, nhất là các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như công nghiệp, xây dựng,
thương mại và dịch vụ. Tốc độ ĐTH càng nhanh thì tốc độ và quy mô hội tụ kinh
tế đô thị càng cao, nó quyết định đến số lượng, chất lượng việc làm được tạo ra.
Mặt khác, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế đô thị cũng tác động đến sự thay đổi
thu nhập, mức sống, môi trường sống, chất lượng sống và nhận thức của cư dân đô
thị, quy mô dân số, lao động nhập cư. Do đó, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế đô
thị là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến vấn đề lao động-việc làm ở đô
thị.
- Sự phát triển các khu vực kinh tế không chính thức ở đô thị:
Cùng với đẩy nhanh tốc độ ĐTH
là sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của
khu vực kinh tế không chính thức. Đây là khu vực họat động kinh tế của
những người không đăng ký hoạt động, không yêu cầu trình độ cao, quy mô nhỏ,
việc làm tạm thời là phổ biến,…rất phù hợp với những người và lao động không có
tay nghề xuất thân từ đô thị và nhập cư từ nông thôn. Sự phát triển khu vực
kinh tế không chính thức sẽ tạo ra một số lưọng việc làm không nhỏ, thu hút
một lượng lớn lao động vào làm việc góp
phần làm giảm áp lực về nhu cầu làm việc ở khu vực kinh tế chính thức.
Tuy nhiên, năng suất, thu nhập
thấp, bấp bênh, không ổn định là một đặc trưng cơ bản nhất của những việc làm ở
khu vực kinh tế này. Do đó, trong quá trình giải quyết việc làm cho những người
lao động không có tay nghề, một mặt, phải thúc đẩy khu vực kinh tế không chính
thức theo hướng nâng cao năng suất lao động tự tạo việc làm, chuyển đổi việc
làm, đặc biệt là hỗ trợ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để mọi người lao động,
nhất là lao động trong độ tuổi thanh niên có thể tham gia các chương trình đào
tạo nghề. Nếu làm tốt điều này sẽ góp phần nâng cao trình độ cho người lao động
thúc đẩy cơ cấu lao động chuyển dịch thích ứng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH, ĐTH.
Như vậy, sự phát triển của khu
vực kinh tế không chính thức ở đô thị là một trong những nhân tố hết sức quan
trọng không thể không quan tâm đúng mức khu giải quyết việc làm trong quá trình
ĐTH.
- Nhân tố về đặc điểm của người lao động ở đô thị:
Đặc điểm của người lao động
bao gồm đặc điểm về nhân khẩu (độ tuổi, giới tính, dân tộc, quy mô và kiểu hộ
gia đình, tình trạng hôn nhân, đặc điểm chủ hộ,…), đặc điểm về giáo dục (học
vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề), đặc điểm về kinh tế (mức sống,
thu nhập, quy mô và thói quen chi tiêu, nhà ở, tài sản,…), đặc điểm về văn hóa,
lối sống, phong tục, tập quán, tác phong lao động, khả năng thiết lập các mối
quan hệ làm ăn, thái độ tích cực, sự năng động và niềm tin của bản thân người
lao động về khả năng tìm kiếm việc làm…Như vậy, đặc điểm của người lao động đo
thị ảnh hưởng rất lớn đến cách thức sử dụng nguồn laođộng, giải quyết việc làm
ở đô thị.
Một trong những nhân tố cấu
thành đặc điểm của người lao động ở đô thị là văn hóa, lối sống. Đây là nhân tố
tác động rất mạnh mẽ đến nhận thức, tác phong và hành vi của người lao động.
Chẳng hạn, sự chuyển đổi từ quy mô gia đình nhiều thế hệ, đông con truyền thống
sang mô hình gia đình ít con, hay hình thành xu hướng đầu tư nhiều hơn cho giáo
dục ở các hộ gia đình đô thị, …là kết quả của những tác động vởi sự hình thành,
phát triển văn hóa và lối sống đô thị. Vì vậy, để giải quyết việc làm có hiệu
quả cần phải quan tâm nghiên cứu tác động của nhân tố này một cách thỏa đáng.
Đặc điểm của người lao động đô
thị thể hiện ở những khía cạnh như trên là những nhân tố cấu thành nên chất
lượng nguồn lao động đô thị. Hầu hết ở các đô thị nước ta hiện nay thường có số
lượng lao động cao nhưng chất lượng lao không đáp ứng theo kịp với yêu cầu về
chất lượng lao động của quá trình CNH, ĐTH. Do chất lượng nguồn lao động thấp,
năng suất lao động và thu nhập thấp hầu hết chỉ đủ để nuôi bản thân nên nhu cầu
việc làm của mọi thành viên ở đa số gia đình đô thị tăng lên, gây áp lực cho
kinh tế-xã hội đô thị. Hơn nữa, thu nhập thấp cũng là lý do cản trở việc tham
gia các chương trình giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khỏe của cư dân đô thị.
Vì vậy, việc cải thiện chất lượng nguồn lao động đô thị ở nước ta hiện nay là
một cách thức không nhỏ.
- Khoảng cách chênh lệch về kinh tế-xã hội giữa nông thôn và thành thị:
Giữa cư dân nông thôn và cư
dân thành thị có khoảng cách chênh lệch về khả năng tiếp cận và hưởng thụ các
dịch vụ công cộng, an sinh, giáo dục, y tế, cơ hội việc làm, thu nhập,… Chính
khoảng cách chênh lệch này là tác nhân quan trọng để hình thành các quyết định
di cư của nồn dân đến thành thị Không chỉ có vậy, đây còn là vấn đề nghiêm
trọng, liên quan trực tiếp đến những nguyên nhân bất ổn xã hội đô thị, mất cân
đối trong việc phân bố lại dân cư và phân công lại lao động xã hội. Theo đó một
sự mất cân đối trong việc phân bố các nguồn lực giữa nông thôn và thành thị,
giữa các thành thị với nhau sẽ xảy ra, đe dọa nghiêm trọng đến phát triển bền
vững đô thị.
Chương 2
THỰC TRẠNGVIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP THUỘC DIỆN
DI DỜI, GIẢI TỎA TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở PHƯỜNG TRƯỜNG CHINH
2.1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI PHƯỜNG TRƯỜNG CHINH
Phường Trường Chinh đã chủ
trương đẩy nhanh tốc độ ĐTH với xuất phá điểm từ việc thực hiện cải tạo, nâng
cấp cơ sở hạ tầng đô thị. Sau 8 năm huy động các nguồn lực tập trung đầu tư
phát triển, QHCT đô thị, đến nay diện mạo phường Trường Chinh đã đổi mới khang
trang hơn, nhiều khu vực công nghiệp tập trung, khu du lịch và khu đô thị mới
được mọc lên. Nay Phường Trường Chinh đã có 5 khu công
nghiệp với tổng diện tích khoảng 1.400 ha.
Đặc điểm nổi bật của việc đẩy
nhanh ĐTH, QHCT đô thị ở Phường Trường Chinh là sự gia tăng mạnh mẽ thu hút và
thực hiện vốn đầu tư phát triển. Trong cơ cấu vốn đầu tư thì phần lớn tập trung
cho xây dựng cơ bản, mà chủ yếu là đầu tư cải tạo và nâng cấp, hiện đại hóa cơ
sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị. Mặc dù hiệu quả đầu tư trong những năm qua ngày
càng được cải thiện đáng kể, song muốn nguồn vốn huy động được chủ yếu là vốn
vay, nguồn vốn đầu tư cho khu vực sản xuất còn ở mức hạn chế nên chưa tạo được
đòn bẩy thúc đẩy sản xuất phát triển, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về
kinh tế của Phường Trường Chinh.
Bảng 2.1: Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 2000-2008 [9], [10],
[11], [12]
Đơn vị tính tỷ đồng, tính theo giá trị hiện hành
Năm
|
Tổng vốn đầu
Tư phát triển
|
% GDP
|
Tốc độ tăng
hàng năm (%)
|
Vốn đầu tưXDCB
|
Vốn đầu tư XDCB so tổng vốn ĐTPH (%)
|
2000
|
1.624,50
|
50,63
|
29,37
|
1.146,80
|
70,59
|
2001
|
1.872.70
|
50,27
|
15,27
|
1.342.30
|
71,68
|
2002
|
2.132,20
|
49,89
|
13,86
|
1.556,90
|
73,02
|
2003
|
2359,10
|
47,69
|
10,64
|
1.811,57
|
76,79
|
2004
|
2.527,60
|
44,33
|
7,14
|
1.876,59
|
74,24
|
2005
|
2.850,10
|
42,84
|
12,76
|
2.042,55
|
71,66
|
2006
|
3.770,60
|
41,72
|
32,29
|
2.673,22
|
70,90
|
2007
|
5.517,70
|
52,97
|
75,07
|
3.418,00
|
61,95
|
2008
|
8,114,00
|
68,47
|
22,90
|
3.229,00
|
61,95
|
Tổng
|
30.768,50
|
|
|
19.096,93
|
39,80
|
Nhờ có sự gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tư phát triển và phát triển nhanh
chóng có sở hạ tầng theo hướng HĐH trong nhiều năm qua đã tạo được động lực cho
phát triển kinh tế-xã hội phường Trường Chinh. Trong giai đoạn 2000-2008, kinh
tế Phường Trường Chinh tăng trưởng cao với tốc độ tăng trưởng luôn trên
10%/năm, GDP năm 2008 là 6.223,83 tỷ đồng tăng
gấp 3 lần năm 2004. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Phường
Trường Chinh giai đoạn 1998-2003 là 10,57%/năm và giao
đoạn 2004-2008 là 13,30%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả
nước (giai đoạn 1996-2000 là 6,90% và giai đoạn 2001-2005 là 7,50%).
Bảng 2.2. Tăng trưởng kinh tế
giai đoạn 1999-2009 [9], [10], [11], [12]
Đơn vị tính tỷ đồng, tính theo giá cố định năm 1994
Năm
|
GDP của Phường Trường Chinh
|
Tốc độ tăng trưởng của Phường Trường
Chinh (%)
|
Tốc độ tăng trưởng của cả nước (%)
|
1998
|
2.051,62
|
13,10
|
9,5
|
1999
|
2.342,95
|
14,10
|
9,3
|
2000
|
2.589,84
|
10,10
|
8,8
|
2001
|
2.817,70
|
8,80
|
5,8
|
2002
|
3,085,40
|
9,50
|
4,8
|
2003
|
3.390,20
|
9,89
|
6,7
|
2004
|
3.804,90
|
12,23
|
6,8
|
2005
|
4.282,90
|
12,56
|
7,00
|
2006
|
4.823,43
|
12,62
|
7,24
|
2007
|
5.462,85
|
13,25
|
7,7
|
2008
|
6.223,83
|
13,93
|
8,5
|
Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch nhanh phù hợp với xu hướng ĐTH, CNH, đưa tỷ trọng ngành công
nghiệp-xây dựng từ 35,19% năm 1997 lên 48,3% năm 2005; dịch vụ từ 35,19% năm
1997 lên 46,16% năm 2005; ngành công-nông-nghiệp từ 9,7% năm 1997 nay chỉ còn
5,54%.
Bảng 2.3: Cơ cấu kinh tế Phường Trường Chinh
giai đoạn 1997-2005 [9], [10], [11], [12]
Đơn vị tính %, tính theo giá hiện hành
Năm
|
Công
nghiệp-xây dựng
|
Dịch vụ-Thương
mại
|
Nông –lâm
nghiệp
|
|||
% GDP
|
Tốc độ
|
% GDP
|
Tốc độ
|
% GDP
|
Tốc độ
|
|
1997
|
35,19
|
23,58
|
55,11
|
11,02
|
9,7
|
4,3
|
1998
|
37,52
|
23,81
|
53,57
|
12,85
|
8,91
|
0,18
|
1999
|
38,95
|
19,05
|
52,81
|
13,10
|
8,24
|
6,09
|
2000
|
40,59
|
20,65
|
51,55
|
12,99
|
7,86
|
10,36
|
2001
|
42,05
|
19,39
|
50,57
|
13,06
|
7,38
|
8,22
|
2002
|
43,36
|
20,30
|
49,92
|
15,17
|
6,72
|
6,32
|
2003
|
45,60
|
22,92
|
48,00
|
12,38
|
6,40
|
11,25
|
2004
|
48,08
|
20,17
|
45,62
|
12,23
|
6,30
|
5,07
|
2005
|
48,30
|
15,82
|
46,16
|
13,03
|
5,54
|
4,85
|
2.1.3. Về đời sống dân cư:
Cùng với sự phát nhanh chóng kinh tế-xã hội, đời sống dân cư Phường
Trường Chinh ngày càng được nâng lên đáng kể. Theo kết quả khảo sát hộ gia đình
năm 2004, thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng tại
Phường Trường Chinh là 614.720 đồng/tháng. Thu
nhập bình quân của phường Trường Chinh vào năm 2002 xếp
hạng ở vào vị trí thứ 6 trên toàn thị xã. Tốc độ tăng trưởng thu nhập
bình quân hàng năm trong giai đoạn 2002-2004 là 15,3%
(thành thị 12,8%, nông thôn 23,8%), cao hơn nhiều so với cả nước và các phường
Trường Chinh lớn [12, tr.52].
Sự phát triển kinh tế-xã hội
do quá trình ĐTH mang lại trong những năm qua ở phường Trường Chinh đã có tác
động tích cực thú đẩy thị trường lao động phát triển, cơ cấu lại lực lượng lao
động, nâng cao chất lượng lao động, tạo môi trường thuận lợi và nhiều cơ hội
việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, trong quá trình ĐTH cùng với việc gia
tăng mạnh mẽ các làn sóng nhập cư từ nông thôn, lao động dôi dư do sắp xếp lại
các doanh nghiệp Nhà nước là việc xuất hiện một lực lượng lao động nông nghiệp
bị thu hồi sản xuất đã làm nghiêm trọng hơn vấn đề việc làm ở phường Trường
Chinh.
2.2. Đô thị hóa và ảnh hưởng của đô thị hóa đến việc làm của lao động nông
nghiệp thuộc diện di dời, giải tỏa ở Phường Trường Chinh
2.2.1. Phường Trường Chinh
với quá trình đô thị hóa
Để phát huy lợi thế nâng cao
năng lực sản xuất, tạo động lực cho phát triển kinh tế-xã hội, phường Trường
Chinh đã đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phục vụ sản xuất, nâng cấp
QHCT đô thị theo hướng HĐH tạo điều kiện mở rộng không gian đô thị. Nhờ chủ
động làm tốt công tác dân vận, công tác đền bù giải phóng mặt bằng nên đã tạo
được sự ủng hộ mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân, phát huy được nhiều nguồn lực
để thực hiện QHCT đô thị.
Trong giai đoạn 1998-2008 Phường Trường Chinh đã thực hiện
đầu tư phát triển với tổng số vốn là 30.768,50 tỷ
đồng luôn chiếm hơn 40% GDP và hơn cả nước từ 5-7%. Đến nay Phường Trường Chinh đã quy hoạch xây
dựng mới thêm 4 khu công nghiệp tập trung với
tổng diện tích là 1.350 ha. Cùng với thời gian
đó, đã có thêm 5 khu du lịch mới được xây dựng
với tổng diện tích là 1.200 ha. Hệ thống cơ sở
hạ tầng lưới điện, hệ thống giao thông đô thị, hệ thống cấp thoát nước, các
trung tâm y tế, trường học, các khu vui chơi, giải trí, hệ thống chợ, được cải
tạo, nâng cấp, xây dựng mới đồng bộ theo hướng HĐH và được phân bố hợp lý hơn
với không gian đô thị ở Phường Trường Chinh.
Những thành công to lớn trong
thực hiện chủ trương QHCT đô thị suốt 8 năm đẩy nhanh tốc độ ĐTH
ở phường Trường Chinh đã có tác động tích cực thúc đẩy kinh tế-xã hội
phát triển, giải quyết việc làm cho hơn 150.000 lao
động (1998-2008), cơ cấu lại nguồn lao
động, theo hướng tiến bộ, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân,
nâng cao chất lượng lao động, tạo được động lực cho phát triển kinh tế-xã hội phường
Trường Chinh trong giai đoạn tiếp theo.
Trong quá trình QHCT đô thị, từ năm 200 đến năm 2008 toàn phường Trường Chinh có hơn
60.000 hộ phải thực hiện DDGT gay xáo trộn điều kiện sống, môi trường
sống, làm việc của hơn 1/3 dân
số phường Trường Chinh. Trong đó, đáng chú ý là sự biến động mạnh mẽ về đời
sống, việc làm và thu nhập của một bộ phận dân không nhỏ là nông dân và ngư
dân. Theo kết quả khảo sát của Phường Trường Chinh với quy mô 5.753 hộ, 15.795 lao động gặp khó khăn về đời sống
và việc làm khi thực hiện DDGT từ năm 2000 đến
23/9/2003 thì lao động nông-ngư có 3.537 lao động chiếm 22,3%. Trong
tổng số lao động nông-lâm được khảo sát có 1.232
lao động mất việc làm, có 874 người có nhu cầu
học nghề, chiếm 16,17%. Trong số lao động nông-lâm mất việc có 874 người có nhu
cầu học nghề chiếm 71%, còn lại 258 người chiếm 28% có nhu cầu học nghề nhưng
không có đủ điều kiện để học nghề [65].
Cùng thời gian trên, riêng
phường Trường Chinh có 4.109 hộ bị giải tỏa thu hồi đất, chiếm 61% tổng số hộ toàn phường, số lao động bị mất làm là 729 lao động, trong đó mất việc do mất đất
nông nghiệp là 642 lao động, mất việc do mất cơ
sở sản xuất là 78 lao động. Đến thời điểm tháng 5/2004 đã có 125 lao động đã chuyển đổi ngành nghề, 317 có việc làm tạm thời, còn lại 278 người được xem
như là thất nghiệp.
Có thể thấy, việc thực hiện
ĐTH ở phường Trường Chinh còn gặp không ít khó khăn do
việc làm của lao động. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề tạm thời cần phải chấp nhận
trong quá trình ĐTH. Nếu nhìn ở tương lai xa hơn, thì việc đẩy nhanh ĐTH, phục
vụ cho phát triển kinh tế sẽ mở ra nhiều việc làm mới thu hút lao động vào làm
việc. Hiện nay, Phường Trường Chinh đang ở thời kỳ đầu của ĐTH nên có không ít
việc làm từ khu vực không chính thức phục vụ cho ĐTH được đào tạo như nề, mộc,
buôn bán nhỏ, giúp việc gia đình phù hợp với trình độ và tay nghề thấp, sau
thời kỳ đầu này thì số việc làm này dần dần cũng giảm đi mà thay vào đó là nhiều việc làm yêu cầu có
trình độ chuyên môn kỹ thuật.
2.1.2.2. Ảnh hưởng của ĐTH
đến việc làm của lao động ở phường Trường Chinh:
Ảnh hưởng của ĐTH đến việc làm
của lao động nông nghiệp chủ yếu xuất
phát từ những yếu tố sau:
+ Quỹ đất được khai thác chủ
yếu là từ đất phục vụ nông nghiệp:
Quy mô đất phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp và ngư nghiệp của kinh tế hộ ở Phường Trường Chinh ít, lại
phân bố nhiều thửa nhỏ, manh mún, phân tán, có không ít đất nông nghiệp phân bố
xen lẫn ở các khu dân cư đô thị nên việc thực hiện đồn điền đổi thửa rất khó
khăn gây ảnh hưởng đến việc áp dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất và đầu tư
xây dựng phát triển các vùng chuyên canh theo hướng CNH. Vì vậy, trong nhiều
năm qua chính quyền phường Trường Chinh đã có chủ trương chuyển đổi mục đích sử
dụng của loại đất này phục vụ cho công
cuộc đầy nhanh ĐTH. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng của các loại đất này có
thể thấy qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.4: Diện tích và cơ cấu các loại đất [12]
Đơn vị tính: Km2
Năm
|
Diện tích và
cơ cấu các loại đất
|
||||||
Tổng số
|
Đất nông
nghiệp
|
Đất lâm nghiệp
|
Đất chuyên
canh
|
Đất ở
|
Đất chưa sử
dụng
|
||
1997
|
S lượng
|
1248,38
|
128,80
|
617,80
|
377,36
|
20,43
|
103,99
|
T lệ (%)
|
100
|
10,32
|
49,49
|
30,23
|
1,64
|
8,33
|
|
2000
|
S lượng
|
1256,2446
|
123,8493
|
518,5386
|
374,3654
|
27,6354
|
211,8549
|
T lệ (%)
|
100
|
9,86
|
41,28
|
29,8
|
2,2
|
16,86
|
|
2004
|
S lượng
|
1255,53
|
117,22
|
514,21
|
985,69
|
30,79
|
207,62
|
T lệ (%)
|
100
|
9,34
|
40,96
|
30,72
|
2,45
|
16,54
|
Việc thu hẹp mạnh đất nông
nghiệp đã làm cho diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm giảm mạnh.
Ngoài diện tích gieo trồng cây lây năm tương đối ổn định, diện tích gieo trồng
cây hàng năm và diện tích đất canh tác giảm mạnh. Nếu năm 1998 phường Trường Chinh có diện tích gieo trồng cây
hàng năm là 22.164 ha, đến năm 2008 chỉ còn 13,079 ha (giảm 9,085 ha), diện tích đất
canh tác năm 1999 là 8.793,21 ha, năm 2003 là 8.177 ha(giảm 616,21 ha).
+ Về bố trí TĐC cho nông dân:. Việc bố trí lại nơi cư trú mới phục vụ nông theo hướng tập trung, hiện đại đã
khiến cho không ít nông dân muốn tiếp tục hành nghề cũ phải đi làm xa hơn, các
hộ nông dân đã quen ở trong những ngôi nhà có diện tích rộng và có vườn để tận
dụng chăn nuôi gia cầm, gia súc, chế biến nông sản ... Nay do không có tiền nên
phải vào sống nhà tạm bợ, nhà thuê mướn, diện tích nên không phù hợp với lối
sống và điều kiện làm việc quen thuộc của họ.
Ngoài một bộ phận dân cư được
bố trí tái định cư tại chỗ còn lại dân cư khác phải di chuyển đến nơi ở mới,
cách xa với môi trường sống và làm việc cũ, quen thuộc cũng cản trở không nhỏ
đến việc làm của lao động nông nghiệp. Gắn liền với việc di chuyển chổ ở là các
thủ tục pháp lý về hộ tịch, hộ khẩu, nhập, tách hộ, giấy tờ nhà đất, giấy phép
xây dựng… Tất cả những thủ tục đó đang là vấn đề rất khó khăn không chỉ đối với
chính quyền và ban ngành các cấp mà cả đối với người dân ở Phường Trường Chinh
hiện nay.
+ Ngoài những yếu tố trên,
trong quá trình ĐTH để giải phóng mặt bằng phục vụ cho QHCT đô thị, hàng loạt
các công trình, cơ sở hạ tầng phục vụ cho nông, ngư nghiệp bị phá bỏ, thậm chí
một số công trình mới đầu tư xây dựng cũng phải bị phá bỏ do điều chỉnh quy
hoạch. Điều này đã làm cho ngành nông –
lâm của phường Trường Chinh bị động, lúng túng trong việc triển khai thực hiện
các chương trình dài hạn phát triển nông - ngư nghiệp. Không ít các hộ nông
dân, ngư dân có tâm lý bị động nằm chờ giải tỏa nên không an tâm sản xuất.
2.1.3. Đặc điểm của lao động nông- ngư thuộc diện DDGT ở Phường Trường
Chinh.
Từ năm 1998 khi bắt đầu thực hiện QGCT đô thị, DDGT và phân
bố lại dan cư đến nay chưa có một cơ quan có thẩmquyền nào ở Phường Trường
Chinh có một cuộc tổng điều tra trên phạm vi toàn thanh phố về tình hình lao
động- việc làm của lao động thuộc diện DDGT nói chung và lao động- việc làm của
lao động nông- ngư thuộc diện DDGT nói riêng. Chỉ biết rằng từ năm 2001 đến nay các cơ quan chức năng như Ban Quản lí
các dự án đền bù, giải toả đều xác nhận có khoảng
60.000 hộ với hơn 1/3 dân số trên địa bàn phường Trường Chinh phải thực
hiện DDGT.
Như vậy, mỗi năm có khoảng 7.000 lao động nông- lâm phải thực hiện DDGT.
Tuy chỉ chiếm khoảng 2% lực lượng lao động đang
làm việc và chiếm hơn 8% lực lượng lao động làm
việc trong ngành nông- lâm của Phường Trường Chinh mỗi năm nhưng số lao động
nông- lâm thuộc diện DDGT chiếm 1/3 quy mô việc
làm tạo ra hàng năm của phường Trường Chinh và cao hơn số lao đông được giải
quyết việc làm mỗi năm trong ngành nông- lâm của phường Trường Chinh là 1,8 lần. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với khả năng giải
quyết việc làm của Phường Trường Chinh trong những năm qua thì rõ ràng sẽ là
một áp lực vô cùng lớn, ảnh hường mạnh mẽ đến qúa trình ĐTH, phát triển kinh
tế- xã hội Phường Trường Chinh.
Nhìn chung đối tượng lao động
nông- lâm thuộc diện DDGT ở Phường Trường Chinh rất đa dạng, nằm ở độ tuổi,
nhiều hoàn cảnh, mức sống, sức khoẻ, tình trạng hôn nhân, quy mô và kiểu hộ gia
đình khác nhau. Qua kết qủa khảo sát, chúng tôi thấy nổi lên một số đặc điểm
sau:
- Quy mô nhân khẩu hộ gia đình lớn:
Quy mô hộ gia đình nông- lâm
thuộc diện DDGT phổ biến nhất là 5 nhân khẩu/hộ,
chiếm 19,85% tổng số hộ, quy mô hộ trung bình là 5,76 nhân khẩu/hộ. Quy mô hộ trung bình năm 1999 ở các đô thị có tỷ lệ dân số ở khu vực thành thị trên 50% là 4,47 ở khu vực thành thị và 4,47 ở khu vực
nông thôn .
Quy mô hộ gia đình nông- lâm
nói chung và hộ gia đình nông- lâm thuộc diện DDGT nói riêng cao như vậy xuất
phát từ tính chất công việc đồi hỏi nhiều người lao động cơ bắp. Hiện tượng kết
hôn, đẻ con sớm, đẻ dày thường xuyên diễn ra trong cộng đồng nông dân. Hơn nữa
quan niệm về sinh con trai đẻ gánh vác chuyện gia đình vẫn còn nằng nề trong
suy nghĩ của họ nên việc sinh đẻ nhiều cũng là nhân tố làm tăng quy mô hộ. Tuy
nhiên, ở đây có một hiện tượng đáng lưu ý là trong suốt thưòi gian thực hiện
DDGT vừa qua, thành phố Phường Trường Chinh luôn bố trí đất ở cho các gia đình
đông con nhằm đáp ứng nhu cầu tách hộ cho những hộ có số nhân khẩu cao. Qua tìm
hiểu chúng tôi thấy đa số các hộ được bố trí thêm đất ở để tách hộ, song do
điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên một số hộ đã bán đất để lấy tiền xây
nhà mới, một số hộ muốn tách nhưng không có tiền để xây dựng nhà nên vẫn tiếp
tục ở lại trong gia đình cũ.
- Kinh tế chủ hộ chủ yếu dựa vào lao động nam:
Do đặc điểm của công việc lao
động nông- ngư nghệp cần thiết nhiều sức lao động cơ bắp, nên có sự phân công lao
động theo giới tính rất rõ giữa lao động nữ và lao động nam. Công việc nông- lâm
không chỉ nặng nhoc, vất vả mà đòi hỏi thời gian lao động kéo dài, xa nhà, rủi
ro cao, kể cả tài sản và tính mạng (đối với ngư dân) nên dẫn đến một thực tế là
mọi người đều thừa nhân vai trò trụ cột của lao động nam trong các hộ gia đình
nông- lâm.
Theo kết quả khảo sát 262 chủ hộ nông- lâm mà chúng tôi thực hiện thì có
đến 182 lao động nam, chiếm
69.7%, trong đó lao động nam là chủ hộ nông dân chiếm 66,92% và lao động nam là chủ hộ chiếm ngư dân chiếm 72.09%. Tất cả họ đều là những lao động chính trong
gia đình nên thời gian làm việc và thu nhập bình quân từ việc làm của lao động
nam cũng cao hơn thu nhập từ việc làm của lao động nữ rất nhiều. Tuy nhiên,
việc phân định một cách rạch ròi về thời gian và thu nhâp giữa lao đông nam và
lao động nữ trong mỗi hộ gia đình nông- lâm là rất khó khăn. Bởi lẽ, do yêu cầu
về phân công lao động theo giới tính trong nông- lâm nghiệp mà thông thường
công việc và thời gian làm việc của lao động nữ phụ thuộc vào công việc và thời
gian làm việc của lao động nam. Những phân tích trên đã chỉ ra rằng việc giải
quyết việc làm cho lao động nữ trong các hộ gia đình nông- lâm thuộc diện DDGT
hiện nay khó hơn rất nhiều so với lao động nam khi có sự biến đổi về điều kiện
việc làm của lao động nam.
- Mức sống thấp:
Mức sống là một khái niêm tổng
hợp dùng để chỉ mức độ thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của người dân hay
một nhóm dân cư nào đó. Để phản ánh mức sống, thông thường người ta kết hợp
nhiều tiêu chí định tính và định lượng khác nhau. Để tìm hiểu mức sống của lao
động nông- lâm thuộc diện DDGT ở phường Trường Chinh, trong phạm vi luân văn
này tác giả sẽ tiếp cận theo các tiêu chí sau:
+ Điều kiện sống và thu nhập: Nhìn chung điều kiện sống của những hộ gia đình có chủ hộ là lao động nông-
lâm thuộc diện DDGT rất khó khăn, không ít hộ gia đình rơi vào tình trạng túng
thiếu. Sau khi thực hiện DDGT, điều kiện sống của lao động nông- lâm biến đổi
rất mạnh mẽ so với trước giải toả. Tỷ lệ lao động có điều kiện sống khá giảm 5,34%, đủ sống 24,05%, ngược lại điều kiện sống
túng thiếu và rất túng thiếu của lao động thuộc đối tượng này lại tăng lên với
con số tương ứng. Lý do giải thích cho sự biến đổi này là do số lượng lao động
bị thất nghiệp, thiếu việc làm sau giải toả là khá lớn, chiếm đến 33,97% tổng số lao động nông- lâm thuộc diện khảo
sát. Trong khi đó, số lao động vẫn làm nghề cũ và đã chuyển đổi nghề mới lại
gặp nhiều khó khăn về việc làm khiến cho thu nhập từ việclàm mới của đa số lao
động là rất thấp, việc làm chủ yếu là tạm thời.
+ Nhà ở: Nhà ở là
điều kiện vật chất quan trọng để ổn định cuố sống dài. Hơn nữa, đối với cư dân đô
thị nói chung và đối với nông-lâm nói chung, nhà ở không chỉ là nơi cư trú mà
còn là phương tiện làm việc. Do vậy, nhà ở có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến
tâm lý, thái độ của người lao động đới với vấn đề việc làm mà còn tạo điều kiện
cần thiết cho người lao động có thể tiến hành tổ chức công ăn, việc làm.
- Độ tuổi trung bình cao:
Độ tuổi có mối quan hệ chặt chẽ với khả năng giải quyết việc làm. Khi
người lao động ở độ tuổi thấp thì có sức khỏe, năng động táo bạo nhưng thiếu
kinh nghiệm trong việc thiết lập các mối quan hệ làm ăn, trong khi đó lao động
tuổi cao có kinh nghiệm nhưng thường cẩn trọng và bảo thủ, thiếu táo bạo trong
việc nắm bắt các cơ hội việc làm. Độ tuổi lao động nông-lâm thuộc diện DDGT phổ
biến nhất là ở đổ tuổi 35-45 tuổi, chiếm 52,29%, ở độ tuổi 45-55 tuổi chiếm
29,01%. Tuy nhiên, dưới tác động của ĐTH trong nhiều năm qua ở Phường Trường
Chinh không ít lao động trẻ có xu hướng thoát ly khỏi hoạt động nông- lâm
nghiệp, những lao động đến thời điểm DDGT vẫn còn tham gia trong lĩnh vực này
chủ yếu là do nông-lâm nghiệp là nghề truyền thống của gia đình hoặc do hoàn cảnh
gia đình khó khăn hoặc do không có khả năng chuyển đổi nghề khác nên bắt buộc
phải bám đất để sinh sống. Do vậy lực lượng lao động nông- lâm thuộc diện DDGT
này có xu hướng tuổi đời ngày càng cao.
- Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
thuật:
Mặc dù trong những năm qua chính quyền phường Trường Chinh đã quan tâm
tập trung quy hoạch mạng lưới dạy nghề nhưng nhìn chung trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông- lâm thuộc diện DDGT rất thấp,
phần lớn chỉ mới ở cấp tiểu học (30,15%) và
trung học cơ sở (48,48%), hầu hết chưa qua đào
tạo nghề chính quy (69,85%), số lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn
5,73%. Điều này đã phản ánh rằng khả năng tiếp
cận các chương trình giáo dục, đào tạo nghề của lực lượng lao động này rất
thấp. Lý do đưa ra có thể là do hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng cũng không
thể thừa nhận một thực tế là do trong số họ không ít người thiếu nhận thức đúng
đắn về vai trò của giáo dục- đào tạo đối với việc tạo lập và ổn định cuộc sống
lâu dài cho họ.
Bảng 2.5: Trình độ học vấn của lao
động nông- ngư thuộc diện DDGT
(xem: bảng 1.6 phụ lục 4)
|
Lao động ngư
nghiệp
|
Lao động nông
nghiệp
|
Tổng
|
|||
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ
(%)
|
|
1. Tiểu học
|
44
|
34,11
|
35
|
26,32
|
79
|
|
2. Trung học
CS
|
62
|
48,06
|
65
|
48,87
|
127
|
48,47
|
3. Trung học
PT.
|
13
|
10,08
|
28
|
21,05
|
41
|
15,65
|
4. Không trả
lời
|
10
|
7,75
|
2
|
3,76
|
15
|
5,73
|
Tổng
|
129
|
100
|
133
|
100
|
262
|
100
|
Bảng 2.6: Trình độ chuyên môn kỹ
thuật của người lao động nông- ngư diện DDGT
( Xem bảng 1.7 phụ lục 4)
Trình độ
chuyên môn kỹ thuật
|
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ (%)
|
1. Đại học cao
đẳng
|
5
|
1,95
|
2. Trung cấp
chuyên nghiệp
|
10
|
3,82
|
3. Công nhân
kỹ thuật
|
4
|
1,53
|
4. Chưa qua
đào tạo chính quy
|
183
|
69,85
|
5. Không trả
lời
|
60
|
22,89
|
Tổng
|
262
|
100
|
2.2. TÌNH HÌNH VIỆC LÀM VÀ GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP THUỘC DIỆN DI DỜI, GIẢI TỎA TRONG QUÁ
TRÌNH ĐÔ THỊ HOÁ Ở PHƯỜNG TRƯỜNG CHINH:
2.2.1. Hiện trạng việc làm của lao
động nông-ngư thuộc diện di dời, giải tỏa ở Phường Trường Chinh:
2.2.1.1. Sự biến đổi tình trạng việc lao của lao động nông nghiệp sau
do dời, giải tỏa:
Dưới tác động của quá trình ĐTH, QHCT đô thị trong nhiều năm qua, điều
kiện sống, môi trường sống và làm việc của gần 37.000
lao động nông-lâm thuộc diện DDGT bị xáo trộn, gây ảnh hưởng làm biến đổi tình
trạng việc làm của những lao động thuộc đối tượng này. Qua khảo sát sự thay đổi về việc làm của
133 lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT là những người đều có việc làm trước
giải tỏa cho kết quả như sau:
Bảng 2.7. Biến đổi việc làm của
lao đông lông-ngư sau DDGT (Xem bảng 2.1. phụ lục 4)
|
Lao động ngư
nghiệp
|
Lao động nông
nghiệp
|
Tổng
|
|||
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ (%)
|
|
1. Vần nghề cũ
|
69
|
53,49
|
40
|
30,08
|
109
|
41,6
|
2. Đã đổi nghề
|
20
|
15,50
|
18
|
13,53
|
38
|
14,6
|
3. Thất nghiệp
|
29
|
22,48
|
60
|
45,11
|
89
|
33,97
|
4. Kh. Trả lời
|
11
|
8.53
|
15
|
11.28
|
26
|
9.92
|
Tổng số
|
129
|
100
|
133
|
100
|
262
|
100
|
Bảng trên cho thấy tình trạng việc làm của những lao động nông-lâm thuộc
diện DDGT biến đổi rât mạnh mẽ: tỷ lệ lao động có việc làm sau giải toả giảm
xuốn chỉ còn 56,1% (số lao động có việc làm
trước giải toả là 100%). Trong só lao động có việc làm sau giải toả chỉ có 41,6% lao động vẫn còn tiếp tục làm nghề cũ, còn
lại 14,5% lao động buộc phải chuyển đổi nghề
mới. tỷ lệ thất nghiệp, mất việc làm sau giải toả tăng 33,9%
so với trước giải tỏa. Nếu chỉ xét riêng về mức độ ảh hưỏng của việc thực hiện
DDGT đến số lượng việc làm mà chưa xem xét đến thu nhập, chất lượng việc làm đó
như thế nào thì những lao động nông nghiệp bị ảnh hưởng mạnh mẽ hơn so với lao
động nông nghiệp.
Khi tìm hiểu về nguyên nhân vấn tiếp tục làm nghề cũ của 41,6% lao động nông-lâm thuộc diện DDGT thì có 20,18% trong số đó cho rằng do họ bằng lòng với
nghề, cũ 24,77% cho rằng do bao đời nay gia đình
đã là nghề này, 34,86% là do mới chuyển đến ở
không có thời gian chuyển đổi nghề mới. Những con số trên đây tuy không phản
ánh đầy đủ về thái độ của những người lao động này đối với nghề nghiệp, việc
làm của mình nhưng ở một khía cạnh nào đó nó cũng nói lên được rằng ngay cả
những người đang làm nghề cũ vẫn có một bộ phận không nhỏ có ý muốn thoát ly
khỏi nghề nông- lâm nghiệp để chuyển nghề mới. Đây không chỉ là ước muốn cá
nhân của những lao động riêng lẻ mà còn là một hiện tượng khá phổ biến đang trở
thành xu hướng trong quá trình ĐTH ở nước ta nói chung và ở Phường Trường Chinh
nói riêng. Do đó, để tạo điều kiện cho người lao động thuộc đối tượng này có
được việc làm phù hợp sau giảt toả là một áp lực ngày càng lớn ở Phường Trường
Chinh.
2.2.1.2. Về điều kiện việc làm sau giải toả.
Do ảnh hưởng của việc thực hiện DDGT mà điều kiện việc làm của những lao
động nông- lâm có nhiều thay đổi theo những chiều hướng khác nhau. Đối với
người này có thể điều kiện về việc làm sau giải toả thuận lợi hơn hoặc không có
thay đổi gì nhiều so với trước giải toả, đối với người khác lại gặp khó khăn
hơn. Tuy nhiên, kết quả khoả sát cho thấy cả lao động nông nghiệp và lao động
ngư nghiệp thuộc diện DDGT đều có xu hướng gặp khó khăn hơn về điều kiện việc
làm so với trước giải toả.
2.2.1.3. Cơ cấu các loại hình việc làm và thu nhập sau giải toả
Nhìn chung, ngoài một số lao động nông- lâm thuộc diện DDGT trẻ có điều
kiện học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp và được tiếp nhận vào làm việc trong các
doanh nghiệp, các khu công nghiệp còn lại đa số lao động có được việc làm sau
giải toả chủ yếu là tự tổ chức việc làm (chiếm 43,54%
tổng số lao động có việc làm sau giải toả) và đi làm công, làm thuê (chiếm 44,90% tổng số lao động có việc làm sau giải
toả) trong lĩnh vực nông- lâm như trước và trong khu vực kinh tế không chính
thức. Một số vẫn tiếp tục làm nghề cũ, một số khác do không còn mặt đất, để tổ
chức sản xuất hoặc mất đi những lợi thế để làm việc như cũ buộc phải chuyển đổi
nghề nghiệp. Do gặp không ít khó khăn khi chuyển đổi nghề nên số lao động
chuyển đổi được việc làm sau giải toả rất ít, chiếm 14,5%
tổng số lao động nông-lâm thuộc diện DDGT và chiếm
25,85% tổng số lao động có việc làm sau giải toả. Những loại hình việc
làm mà lao động nông- lâm này chuyển đổi được chủ yếu là phụ hồ (23,68%), buôn bán nhỏ (18,42%),
làm việc tự do (18,42%), thợ nề (15,79%), thợ mộc (13,16%),
còn lại là những việc làm khác. Trong đó, số lao động chuyển sang làm phụ hồ,
buôn bán nhỏ tại nhà hoặc vỉa hè, làm việc tự do ở khu vực kinh tế không chính
thức là phổ biến nhất. Rõ ràng với những loại hình công việc mà những lao động
nông- lâm thuộc diện DDGT có được sau giải toả như trên đã phần nào nói lên
được tính chất tạm thời, thiếu ổn định về việc làm của họ. Qua hỏi ý kiến về
việc làm sau giải toả của đối tượng này thì có đến 53,74%
lao động cho rằng có việc làm tạm thời, trong khi đó chỉ có 32,65% lao động cho rằng họ đang có việc làm ổn
định.
Với đặc điểm, tính chất và thời gian làm việc như trên chắc thu nhập từ
những việc làm này mang lại sẽ không cao. Thật vậy, số người có thu nhâp từ
việc làm ở mức 500 ngàn đồng/tháng đến 700 ngàn
đồng/tháng chiếm tỷ lệ cao nhất 27,89%, ở mức 350 ngàn đồng/tháng đến 500 ngàn
đồng/tháng chiếm 19,05%, còn số việc làm có các mức thu nhập dưới 350 ngàn
đồng/tháng và mức từ 700 ngàn đồng/tháng trở lên được phân bố đồng đều ở mức
xấp xỉ trên 10%. (xem bảng 2.10)
Bảng 2.10: Thu nhâp từ việc làm của những người lao động nông- lâm sau
giải toả .
Đơn vị tính: 1000 đồng/tháng
|
Số lượng (người)
|
Tỷ lệ (%)
|
1. Dưới 200
|
17
|
11,56
|
2. Từ 200 đến
dưới 350
|
17
|
11,56
|
3. Từ 350 đến
dưới 500
|
28
|
19,05
|
4. Từ 500 đến
dưới 700
|
41
|
27,89
|
5. Từ 7000 đến
dưới 10000
|
19
|
12,93
|
6. Từ 1000 trở
lên
|
18
|
12,24
|
7. Không trả
lời
|
7
|
4,77
|
Tổng
|
147
|
100%
|
Qua việc phân tích hiện trạng việc làm và chuyển đổi việc làm của lao
động nông- lâm thuộc diện DDGT như trên đã cho phép ta hình dung ra không ít
những khó khăn và đặt ra nhiều vấn đề về việc làm hết sức nan giải cần giải
quyết trong quá trình ĐTH, QHCT đô tị ở Phường Trường Chinh hiện nay.
2.2.2. Tình hình thực hiện chủ
trương, chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động nông- lâm thuộc diện
DDGT ở phường Trường Chinh và kết quả đạt được
2.2.2.1. Chủ trương, chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp thuộc diện DDGT ở phường Trường Chinh
Để ổn định cuộc sống của dân cư sau giải toả, bên
cạnh các chính sách về đền bù, giải toả về đất đai, nhà ở, vật kiến trúc, cây
cối, hoa màu, vât nuôi, hỗ trợ di chuyển, trợ câp thuê nhà… chính quyền phường
Trường Chinh đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chính sách nhằm hỗ trợ và
giải quyết việc làm cho những lao động thuộc diện DDGT, thu hồi đất đai sản
xuất nói riêng. Bao gồm các chính sách sau:
- Bản quy định về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sản xuất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trên
địa bàn phường Trường Chinh.
Trong nội dung của các chính sách nói trên hàng loạt các biện pháp ổn
định cuộc sống, khôi phục thu nhập, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết
việc làm cho những lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT, thu hồi đất sản xuất
đã được đưa ra. Nội dung khái quát của các biện pháp đó là:
Một là, thực hiện trợ cấp ngừng
sản xuất kinh doanh với mức trợ cấp bằng 20% thu
nhập thuế đối với các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký sản
xuất kinh doanh tại địa điểm giải toả, phải di chuyển cơ sở sản xuất inh doanh
đến địa điểm mới và thực sự ngừng sản xuất kinh doanh.
Hai là, trợ cấp chi phí chuyển
đổi ngành, nghề đối với lao động sản xuất nông nghiệp, bao gồm các hộ trồng cây
công nghiệp, cây ăn quả tập trung, các hộ đang sản xuất ổn định các loại cây
lương thực, các loại rau, hoa màu, các hộ đang sản xuất, nuôi trồng thuỷ sản.
Mức trợ cấp chi phí chuyển đổi ngành nghề được thực hiện căn cứ vào tỷ lệ đất
thu hồi so với tổng diện tích sử dụng và số lao động nông nghiệp chính, số lao
động nông nghiệp phụ của mỗi hộ.
Ba là, các tổ chức, cá nhân
được Nhà nước giao đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích khác, nếu có nhu cầu
tuyển dụng lao động thì phải ưu tiên tuyển dụng lao động đối với các lao động
trong hộ gia đình có đất nông nghiệp bị thu hồi để giao cho các tổ chức, cá
nhân sử dụng.
Bốn là, thực hiện trợ cấp di
chuyển chỗ ở, trợ cấp ổn định cuộc sống bằng gạo quy ra tiền, trợ cấp tiền thuê
nhà trong thời gian chờ bố trí đất tái định cư để ổn định đời sống cho các hô
dân cư thuộc diện DDGT. Mức trợ cấp được căn cứ vào phạm vi di chuyển chỗ ở, số
nhân khẩu mỗi hộ và giá gạo trung bình trên thị trường Phường Trường Chinh hàng
tháng.
Năm là, đối với hỗ trợ đào tạo
nghề thì phường Trường Chinh thực hiện miễn, giảm học phí và được hỗ trợ tiền
ăn cho học sinh học nghề thuộc hộ nghèo trong diện thu hồi đất sản xuất, DDGT
có hộ khẩu tại phường Trường Chinh. Mức hỗ trợ tiền ăn cho học sinh học nghèo
tối đa không quá 120 ngàn đồng/tháng và thời gian không quá 6 tháng.
Sáu là, những lao động nghèo
thuộc diện DDGT, thu hồi sản xuất được ưu tiên vay vốn từ quỹ quốc gia giả
quyết việc làm do Ngân hàng chính sách thị xã Kon Tum quản lý.
Với việc ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách nói trên đã có tác
dụng cải thiện đáng kể kết quả giải quyết việc làm, góp phần làm giải áp lực về
vấn đề việc làm cho một quy mô dân số và lao động hội tụ ngày càng đông theo xu
hướng ĐTH ở phường Trường Chinh. Đồng thời, góp phần nâng cao đời sống nhân dân
nhất là cán hộ nông-lâm nghèo thuộc diện DDGT, hạn chế và ngăn ngừa được các tệ
nạn và những vấn đề xã hội gây bức xúc.
2.2.2.2. Tình
hình thực hiện chính sách hỗ trợ, giải quyết việc làm cho lao động nông-lâm
thuộc diện DDGT và những kết quả đạt được:
Khi công cuộc ĐTH, QHCT đô thị ở Phường Trường Chinh mới bắt đầu thực
hiện (1998), do hầu hết các dự án cải tạo, nâng
co cơ sở hạ tầng kỹ thuật chỉ tập trung ở khu vực nội thành nên mức độ ảnh
hưởng của nó đến việc làm của lao động nông-lâm không đáng kể. Các chính sách
liên quan đến DDGT, TĐC của phường Trường Chinh lúc bấy giờ chưa hoàn thiện,
chỉ là việc vận dụng Nghị định 22/CP-1998/NĐCP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về
việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đẻ sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh và lợi ích quốc gia. Ngoài việc thực hiện những nội của chính
sách đền bù thiệt hại về đất, tài sản và chính sách hỗ trợ di chuyển chổ ở và
ổn định cuộc sống (mức trợ cấp được thực
hiện bằng tiền tương đương với 30 kg gạo theo giá trung bình trên thị trường Phường
Trường Chinh tại thời điểm giait toả với thời hạn trợ cấp không quá 6 tháng),
phường Trường Chinh chưa có một văn bản nào hướng dân thực hiện hỗ trợ đào tạo
nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động nông-ngư diện
DDGT.
Chính vì vậy, ĐTH đã ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến thu nhập và việc
làm của một quy mô dân số, lao động nông-lâm ngày càng lớn. Lúc bấy giờ do chưa
ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ TĐC kịp thời và phù hợp nên
trong thực tế đã diễn ra tình trạng nhiều hộ gia đình nông- lâm quá bức xúc đã
không chịu giao đất, khiếu kiện chính quyền làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội
phức tạp. Theo nội dung của Bản quy định này thì ngoài việc cho phép thực hiện
hỗ trợ ổn định cuộc sống, trợ cấp ngừng sản xuất kinh doanh như quy định tại
Điều 25, Nghị định 22/CP-1998/NĐCP ngày 24/4/1998 của Chính phủ, những lao động
nông nghiệp phải chuyển đổi nghề khác do bị thu hồi đất nông nghiệp được trợ
cấp chi phí chuyển đổi nghề. Mức trợ cấp chi phí được quy định cụ thể như sau:
- Trợ cấp 2.000.000 đồng/1 lao động chính đối với trường hợp thu hồi toàn
bộ đất nông nghiệp.
- Trợ cấp 1.500.000 đồng/1 lao động chính đối với trường hợp thu hồi 60%
diện tích đất nông nghiệp trở lên.
- Trợ cấp 1.000.000 đồng/ 1 lao động chính đối với trường hợp thu hồi 40%
đến dưới 60% diện tích đất nông nghiệp [63, tr.18].
Khi các chính sách hỗ trợ trên được tổ chức thực hiện và đi vào cuộc sống
đã có tác động tích cực làm xoa dịu phần nào bức xúc của những hộ nông- lâm thuộc
diện DDGT. Tuy nhiên, nó không phát huy được tác dụng trong việc thực sự hỗ trợ
cho lao động nông-lâm có điều kiện tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp và
giải quyết việc làm sau giải toả. Bởi lẽ, số tiền mà họ nhận trợ cấp là quá ít
ỏi so với chi phí để có được việc làm trong khi mức sống phần lớn các hộ gi
đình nông dân thấp, lại đông con, không có trình độ kỹ thuật, tay nghề, lâu nay
chỉ quen lao động thủ công, cơ bắp, cách nghĩ, cách làm còn lạc hậu mang đậm
sắc thái nông dân truyền thống nên để có được việc làm mới trong điều kiện có
nhiều biến đổi nhanh chóng của quá trình ĐTH đối với họ là rất khó khăn. Hơn
nữa, QHCT đô thị không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm của những lao động
nông nghiệp chính mà có ảnh hưởng đến cả việc làm và thu nhập của một bộ phận
không nhỏ lao động nông nghiệp phụ. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:
(Xem phụ lục 5)
Một là, ngoài thực hiện trợ cấp
cho lao động nông nghiệp chính còn thực hiện trợ cấp cho lao động nông nghiệp
phụ và lao động trồng rừng.
Hai là, bổ sung thêm trường hợp
được hưởng trợ cấp chuyển đổi nghề khi có diện tích đất sản xuất bị thu hồi từ
10% đến dưới 40%.
Ba là, nâng mức trợ cấp cho mỗi
lao động chính trong từng trường hợp quy định được hưởng chế độ trợ cấp chuyển
đổi thành nghề.
Mặc dù việc áp dụng chính sách này để trợ cấp chuyển đổi thành nghề cho
lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT đã tạo điều kiện hỗ trợ tốt hơn về kinh tế
cho các hộ gia đình. Tuy nhiên, trong thực tế thực hiện chính sách hỗ trợ đã
xảy ra không ít những vướng mắc, trong đó nổi bật lên là hiện tượng người lao
động phản ứng mạnh về việc áp dụng 2 (hai) căn cứ để xác định mức trợ cấp
chuyển đổi thành nghề, đó là: (1) Tỷ lệ đất thu hồi so với tổng diện tích đất
sử dụng, (2) Số lượng lao động nông nghiệp chính, số lượng lao động nông nghiệp
phụ của mỗi hộ nông dân thuộc diện thu hồi đất sản xuất, DDGT.
Việc xác định tỷ lệ đất thu hồi đối với hộ nông dân bị thu hồi đất sản
xuất nông nghiệp lần đầu tiên và đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì dễ
xác định. Chính vì vậy, nếu mỗi chủ dự chỉ căn cứ vào diện tích đất mà dự án
mình thu hồi để thực hiện hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề thì các hộ nông dân sẽ
bị thiệt. Ví dụ: cùng thời điểm 01/01/2003 tại một khu vực có 3 dự án thu
hồi đất, DDGT. Hộ X có diện tích đất sử dụng là 1.000m2
và bị thu hồi 700m2, tỷ lệ thu hồi
đất là 70%. Có thể xảy ra các trường hợp sau:
- Nếu 700m2 bị thu hồi trên được thực hiện bởi một dự án, một
chủ đầu tư thì việc tính toán hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề là: 3.000.000 đồng/lao
động chính và không quá 6.000.000 đồng/hộ.
- Nếu 700m2 bị thu hồi trên được thực hiện bởi 3 dự án, 3 chủ đầu tư
khác nhau và chủ mỗi dự án tự căn cứ vào tỷ lệ thu hồi đất thuộc dự án mình mà
thực hiện hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề cho các hộ nông dân, cụ thể: Dự án A thu
hồi 80m2 tỷ lệ thu hồi đất là 8%; Dự án B thu hồi 270m2, tỷ lệ thu hồi
đất là 27%; Dự án C thu hồi 350m2, tỷ lệ thu hồi đất 35% thì việc tính toán
hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề như sau:
+ Dự án A không phải thực hiện hỗ trợ vì tỷ lệ thu hồi đất dưới 10%.
+ Dự án B hỗ trợ 1.000.000đ /lao động
chính vì tỷ lệ thu hồi đất nằm trong khoảng trên 10%
đến 40%.
+ Dự án C hỗ trợ 1.000.000đ /lao động
chính vì tỷ lệ thu hồi đất nằm trong khoảng trên 10%
đến 40%.
Như vậy hộ ít nhận được tiền hỗ trợ trong trường hợp đất sản xuất của
mình do 03 dự án là 2.000.000đ/lao động chính,
thấp hơn trường hợp đất sản xuất của gia đình do 01 dự án thu hồi.
Việc xác định số lượng lao động chính, lao động nông nghiệp phụ của mỗi
hộ trong thực tế cũng hết sức khó khăn. Nếu căn cứ vào ngành nghề ghi trong hộ
khẩu để xác định số lượng lao động chính, phụ thì không chính xác so với thời
điểm giải tỏa. Nếu căn cứ vào xác nhận của chính quyền địa phương vùng giải tỏa
thì số lượng lao động nông nghiệp thường cao hơn so với thực tế. Vì vậy, hội
đồng giải phóng mặt bằng phải mất nhiều thời gian xem xét, xác minh từng trường
hợp cụ thể để đề nghị lên Ủy ban nhân dân phường Trường Chinh phê duyệt, làm
chậm trễ thời gian hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề cho người lao động.
Trong thực tế đã có nhiều trường hợp các hộ thu hồi đất nông nghiệp nhiều
nhưng không được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp hoặc được hỗ trợ ít hơn hộ có
diện tích đất sản xuất bị thu hồi ít. Hiện tượng này xảy ra hầu hết là do đất
sản xuất nông nghiệp giao cho hộ gia đình đã lâu do cha, mẹ đứng tên trong sổ
xác nhận quyền sử dụng đất. Những vướng mắc trên đây trong quá trình thực hiện
chính sách hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề cho những lao động nông nghiệp đã dấn
đến tình trạng khúc mắc khiếu kiện diễn ra phổ biến, gây bức xúc cho người lao
động nông nghiệp.
Nhìn chung, cơ chế, chính sách và các biện pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề
nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT ở Phường
Trường Chinh luôn được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện ngày càng phù hợp với
thực tế tình hình thực hiện ĐTH, QHCT đô thị theo hướng tạo điều kiện tốt nhất
cho lao động nông nghiệp có được việc làm sau giải tỏa. Các chính sách đã đáp
ứng được phần nào nguyện vọng của nông nghiệp vùng giải tỏa, góp phần làm giảm
áp lực kinh tế-xã hội và tạo điều kiện thuận lợi giải quyết vấn đề việc làm ở
địa phương.
Qua 6 năm thực hiện chính sách hỗ trợ chuyển đổi
ngành nghề, giải quyết việc làm cho những lao động này, đã đạt được một số kết
quả cụ thể như sau:
- Về hoạt
động cho vay vốn ưu đãi giải quyết việc làm:
Hoạt động cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết
việc làm ngày càng được các địa phương, đoàn thể quan tâm, nhận thức của đội
ngũ cán bộ làm công tác cho vay được nâng lên.
- Về hoạt
động đào tạo nghề:
Nhằm khắc phục sự mất cân đối về nguồn lao động
và đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động nói chung và lao động nông nghiệp
thuộc diện DDGT được hưởng các chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và giải
quyết việc làm nói riêng. Với việc đầu tư cho họat động dạy nghề miễn phí trong
những năm qua, các cơ sở dạy nghề của phường Trường Chinh đã đào tạo được
16.337 người học nghề, tạo điều kiện cho các cơ sở dạy nghề tư vấn nghề cho hơn
30.000 lượt người, giải quyết việc làm cho 13.350 lao động sau đào tạo, đạt tỷ
lệ 81,7%. Trong số lao động được đào tạo nghề nói trên có 5.402 người là lao
động nông nghiệp sau đào tạo thuộc diện DDGT, cụ thể: năm 2001 có 1.315 người,
năm 2002 có 1.153 người, năm 2003 có 934 người, năm 2004 có 1.205 người. Hầu
hết số lao động nông-ngư sau đào tạo đều tìm được việc làm, tạo thu nhập ổn
định.
-Việc tự
tạo việc làm và hỗ trợ khuyến khích tự đào tạo việc làm:
Để góp phần tháo gỡ khó khăn cho lao động
nông-ngư thuộc diện DDGT trong việc tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghịêp,
giải quyết việc làm, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở các địa phương đã
chủ động nắm danh sách số hộ nông nghiệp thuộc diện DDGT, vận động người lao
động ra vùng nông thôn, mua và thuê đất để tổ chức sản xuất, lập trang trại.
Điển hình trong công tác vận động các hộ nông nghiệp thuộc diện DDGT tích cực
tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm.
Nhìn chung, nhờ có sự hỗ trợ tích cực của chính
quyền phường Trường Chinh, cùng với các tổ chức đoàn thể xã hội mà không ít hộ
đã chủ động, tích cực tự tạo việc làm cho mình và tạo việc làm cho người khác.
Dẫu rằng đó là những việc làm chưa mang lại cho họ mức thu nhập cao, đảm bảo
cho họ và gia đình có được một cuộc sống ổn định sau giải tỏa, song trong bối
cảnh đẩy nhanh tốc độ ĐTH ở phường Trường Chinh và trình độ lao động còn nhiều
hạn chế của họ như hiện nay thì đó là một thực tế cần phải chấp nhận, nếu không
muốn nói là điều đáng mừng.
- Về công
tác vận động các đơn vị, các doanh nghiệp, các khu công nghiệp được giao đất sử
dụng vùng giải tỏa tiếp nhận lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT vào làm việc:
Nhờ có sự tích cực vận động của chính quyền Phường
Trường Chinh suốt nhiều năm qua, các doanh nghiệp và các khu công nghiệp trên
địa bàn Phường Trường Chinh đã tiếp nhận đào tạo và vào làm việc tại đơn vị
hàng ngàn lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT. Với những kết quả đạt được như
vạy, các đơn vị, các doanh nghiệp, các khu công nghiệp đã có vai trò rất tích
cực trong việc làm giảm áp lực về vấn đề giải quyết việc làm cho lao động
nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi các dự án QHCT đô thị ở Phường Trường Chinh hiện
nay.
2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân
2.2.3.1. Hạn chế
Những kết quả đạt được về giải quyết
việc làm cho những lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT trong quá trình
ĐTH nhiều năm qua ở phường Trường Chinh đã góp phần đáng kể vào việc
khôi phục thu nhận, ổn định cuộc sống cho nông dân sau giải tỏa, ngăn
chặn được những tệ nạn và những vấn đề xã hội nảy sinh gây bức xúc,
tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế-xã hội ở phường
phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó trong quá trình giải quyết việc
làm cho những lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT vẫn còn chưa chắc,
bộc lộ những hạn chế nhất định. Những hạn chế đó là:
- Tỷ lệ lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng thất nghiệp sau
giải tỏa cao.
- Số lao động nông nghiệp sau khu giải tỏa tìm được việc làm ít
và chủ yếu là việc làm tạm, điều kiện làm việc khó khăn.
Sau giải tỏa, ngoài những loa động có việc làm ít bị ảnh
hưởng bởi thực hiện DDGT (đất sản xuất chỉ bị thu hồi một phân diện
tích hoặc được bố trí tái định cư tại chổ) vẫn có điều kiện để
tiếp tục hành nghề cũ (chiếm 41,6% tổng
số lao động nông nghiệp diện DDGT), số lao động còn lại bị đặt vào
tình thế phải tìm kiếm việc làm khác. Số lao động tìm kiếm được
việc làm sau giải tỏa rất ít, chỉ chiếm 14,5%
tổng số lao động nông ngư diện DDGT mà chúng tôi khảo sát. Trong đó, 13,5% lao động nông nghiệp (trong tổng số lao
động nông nghiệp diện DDGT) kiếm được việc làm. Việc làm mà những
lao động này tìm kiếm được sau giải tỏa hầu hết là những việc làm
tạm thời trong khu vực kinh tế không chính thức, không yêu cầu cao về
trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thu hập thấp, bấp bênh, thiếu ổn định.
Rõ ràng với những loại hình công việc này điều kiện làm việc rất
khó khăn, vất vả nhưng thu nhập mang lại cho họ là không cao, trên 40% việc làm có thu nhập dưới 500 nghìn
đồng/tháng. Có thể thấy rõ điều này qua những kết quả khảo sát
sau:
Bảng 2. 11: Điều kiện việc làm sau giải tỏa
|
L.động nông
nghiệp
|
Tổng
|
||
|
Số lượng
(người)
|
T.lệ (%)
|
Số lượng (người)
|
T.lệ (%)
|
1. Thuận lợi
hơn
|
9
|
6,77
|
43
|
16,41
|
2. Vẫn như
cũ
|
35
|
26,32
|
75
|
28,63
|
3. Khó khăn
hơn
|
84
|
63,16
|
136
|
51,91
|
4. Không trả
lời
|
5
|
3,75
|
8
|
3,05
|
Tổng
|
133
|
100
|
262
|
100
|
Bảng 2.12: Tính ổn định việc làm của lao động nông nghiệp sau
giải tỏa
|
Số lượng
(người)
|
T.lệ (%)
|
1. Có việc
làm ổn định
|
48
|
32,65
|
2. Có việc
làm tạm thời
|
79
|
53,74
|
3. Không trả
lời
|
20
|
13,61
|
Tổng
|
147
|
100
|
Bảng 2.13: Những loại hình công việc của lao động nông nghiệp sau
giải tỏa(xem phụ lục 2.5 phụ lục 4)
|
Số lượng
(người)
|
Tỷ lệ % so
với tổng số lao động có việc làm sau giải tỏa
|
Tỷ lệ % so
với tổng số lao động đã chuyển việc làm sau giải tỏa
|
||
Số lao động
làm nghề cũ
|
1. Nông
nghiệp
|
40
|
27,21
|
0
|
|
Số lao động
đã chuyển đổi việc làm sau giải tỏa
|
2. Thợ nề
|
6
|
4,08
|
15,79
|
|
3. Phụ hồ
|
9
|
6,12
|
23,68
|
||
4. thợ mộc
|
5
|
3,4
|
13,16
|
||
7. Buôn bán
nhỏ
|
7
|
4,76
|
18,42
|
||
8. Làm việc
tự do
|
7
|
4,76
|
18,42
|
||
9. việc làm
khác
|
2
|
1,37
|
5,26
|
||
Tổng
|
147
|
100%
|
100%
|
- Số lao động thực sự chủ động, tích cực tạo việc làm và tìm
kiếm việc làm không nhiều
Trong điều kiện như hiện nay, những lao động nông nghiệp thuộc
diện DDGT tự tạo việc làm cho bản thân mình là cách tốt nhất để có
được việc làm. Tuy nhiên, với mức sống thất và thiếu vốn sản xuất
đang diễn ra phổ biến trong cộng đồng những lao động này thì lẽ ra
số người vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, từ Ngân hàng
Chính sách của thị xã Kon Tum phải nhiều, những qua tìm hiểu chúng tôi
thấy số này chỉ có 29%. Dĩ nhiên có
những lý do khách quan cản trở họ tiếp cận với nguồn vốn này như
thủ tục, quy trình vay vốn, cách thức lập các dự án vay vốn,…song
có thể nói phần lớn là do bản thân họ thiếu hỗ lực, Điều này được
thể hiện ở số lao động tự tổ chức việc làm sau giải tỏa không
nhiều chỉ chiếm 24,43% tổng số lao động
nông-ngư thuộc diện DDGT và chiếm 43,54%
tổng số lao động có việc làm sau giải tỏa.
Bảng 2.14: Tình trạng việc lam của lao động nông nghiệp sau giải
tỏa
(Xem bảng 2.8 phụ lục 4)
|
Số lượng
(người)
|
T.lệ (%)
|
Làm công/làm
thuê
|
66
|
44,90
|
Tự tổ chức
việc làm
|
64
|
43,54
|
Không trả
lời
|
17
|
11,56
|
Tổng
|
147
|
100
|
- Số lao đông tham gia học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp còn
ít, hầu hết là học nghề ngắn hạn
- Khả năng tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm hoặc chuyển đổi
nghề nghiệp còn nhiều hạn chế.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy rất ít người cho rằng mình có khả
năng tự tạo việc làm, tìm kiến việc làm hoặc chuyển đổi nghề
nghiệp, chỉ có 14,5%, trong khi đó tỷ lệ
lao động cho rằng bản thân không có khả năng này là
30,54% và tỷ lệ lao động trả lời có khả năng nhưng rất khó
khăn lại chiếm đến 51,3%.
Bảng 2.15: Khả năng tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm, chuyển
đổi nghề nghiệp (xem bảng 1.8 phụ lục 4)
|
Số lượng
(người)
|
T.lệ (%)
|
1. có khả
năng
|
38
|
14,50
|
2. có khả
năng nhưng rất khó khăn
|
155
|
59,16
|
3. Không có
khả năng
|
60
|
22,90
|
4. Không trả
lời
|
6
|
3,44
|
Tổng
|
262
|
100
|
Bảng 2.16: Những khó khăn khi tự tạo việc làm, tìm kiếm việc
làm và chuyển đổi nghề (Xem bảng 2.11 phụ lục
4)
|
Số lượng ý
kiến
|
T.lệ (%)
|
1. Trình độ
học vấn
|
64
|
15,65
|
2. Trình độ
tay nghề
|
31
|
7,58
|
3. Tuổi tác
|
72
|
17,6
|
4. Sức khỏe
|
47
|
11.49
|
5. Vốn, tiền
bạc
|
124
|
30,32
|
6. Khó tiếp
cận thông tin, lao động việc làm
|
38
|
9,29
|
7. Khó khăn
đi học nghề
|
20
|
4,89
|
8. Khó khăn
khác
|
13
|
3,18
|
Tổng
|
409
|
100
|
2.2.3.2. Nguyên nhân
* Nhóm nguyên nhân từ phía chính quyền:
- Việc ban hành các chính sách nhằm giải quyết việc làm dành
riêng cho các đối tượng này còn chậm, không kịp thời, chưa hợp lý
Những chính sách về đề bù, giải tỏa, TĐC được ban hành trước
đây chỉ quan tâm đến vấn đề nhà cửa, đất đai kiến trúc xây dựng chứ
chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề xã hội của sau tái định cư nói
chung và vấn đề lao động việc làm nói riêng. Việc thực hiện chính
sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp bằng tiền một lần khi giải tỏa
chủ yếu là nhằm giải quyết cho nhanh vấn đề giải phóng mặt bằng
theo phương châm đổi đất lấy công trình hơn là hướng vào giải quyết
cho những lao động này có được cơ hội việc làm, ổn định cuộc sống
sau tái định cư. Trong quá trình thực hiện chính sách, sự chồng
chéo, phối hợp thiếu nhịp nhàng trong hoạt động giữa các ban ngành có
liên quan đã gây cản trở không nhỏ đến tiền độ thực hiện các biện
pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm kịp thời cho
lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT.
Mặc dù các chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại cho các
hộ dân thuộc diện DDGT nói chung và các hộ nông nghiệp thuộc diện DDGT
nói riêng nhìn chung được thực hiện rất tốt, không để nảy sinh các
vấn đề xã hội nghiêm trọng gây bức xúc. Tuy nhiên, việc thực hiện
chính sách bố trí tái định cư cho các hộ nông dân còn thiếu hợp lý.
Không ít hộ sau khi đã thực hiện giải tỏa phải chờ bố trí đát tái
định cư trong thời gian quá dài, nên không an tâm tổ chức sản xuất, Khi
hỏi ý kiến những lao động nông nghiệp diện DDGT về mức độ hợp lý
của các chính sách đền bù, DDGT, tái định cư hiện hành ở Đà Nẵng
cho kết quả sau:
Bảng 2.17: Mức độ hợp lý của chính sách hỗ trợ chuyển đổi
nghề nghiệp, giải quyết việc làm đối với lao động nông nghiệp diện
thu hồi đất DDGT
|
Số lượng (người)
|
T.lệ (%)
|
1. Hợp lý
|
63
|
24,05
|
2. cơ bản hợp lý
|
24
|
9,16
|
3. chưa hợp lý
|
66
|
25,19
|
4. Không biết
|
28
|
10,69
|
5. Không trả lời
|
57
|
21,75
|
6. Không trả lời
|
24
|
9,16
|
Tổng
|
262
|
100
|
- Công tác vận động và khuyến
khích các doanh nghiệp, các khu công nghiệp được giao đất ở vùng giải
tỏa tiếp nhận lao động của chính quyền các cấp còn hạn chế.
Chính quyền phường thiếu biện pháp khả thi để vận động và
khuyến khích các doanh nghiệp, các khu công nghiệp được giao đất ở
vùng giải tỏa tiếp nhận những lao động nông nghiệp này vào đào tạo
và làm việc tại đơn vị, chủ yếu là dựa vào sự tự nguyện và tinh
thần trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với xã hội.
- Chính sách tăng trưởng kinh tế
Chính sách tăng trưởng kinh tế của phường trong nhiều năm qua chủ
yếu dựa vào sự gia tăng mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư, phần lớn lại
tập trung cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng mà ít đầu tư cho khu vực
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Với việc tăng trưởng nhanh việc làm ở lĩnh
vực xây dựng đã thu hút không ít lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT vào làm
việc phục vụ cho các công trinh QHCT đô thị như thợ nề, phụ hồ, thợ mộc,… Tuy
nhiên, với việc hạn chế tăng trưởng việc làm ở những lĩnh vực khác đã làm cho
cơ cấu việc làm không cân đối, nhiều lao động nông nghiệp không phù hợp với các
loại hình công việc trong lĩnh vực xây dựng gặp không ít khó khăn trong việc
tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp.
* Nhóm nguyên nhân từ phía người lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT:
Khả năng tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm của
đối tượng này rất khó khăn, do:
- Mức sống của đối tượng lao động nay đa số còn rất thấp.
- Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật còn rất thấp.
- Tuổi tác trung bình của những lao động cao.
Bảng 2.18: Tuổi tác của lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT
(Xem bảng 1.3 phục lục 4)
Tuổi
|
|
Nữ
|
Tổng
|
|||
Số lượng
(người)
|
T.lệ (%)
|
Số lượng
(người)
|
T.lệ (%)
|
Số lượng (người)
|
T.lệ (%)
|
|
1. Từ
15-<25
|
3
|
1,65
|
0
|
0
|
3
|
1,45
|
2. Từ
25-<35
|
7
|
3,85
|
5
|
6,25
|
12
|
4,58
|
3. Từ
35-<45
|
85
|
46,70
|
52
|
65,00
|
137
|
52,29
|
4. Từ
45-<55
|
87
|
31,32
|
19
|
23,75
|
76
|
29,01
|
5. Từ
55-<60
|
14
|
7,69
|
2
|
2,5
|
16
|
6,11
|
6. > 60
|
8
|
4,395
|
1
|
1,25
|
9
|
3,43
|
7. Không trả
lời
|
8
|
4,395
|
1
|
1,25
|
9
|
3,43
|
Tổng
|
182
|
100
|
80
|
100
|
262
|
100
|
- Quy mô nhân khẩu hộ cao, kinh tế
hộ phụ thuộc chủ yếu vào lao động nam.
Bảng 2.19: Quy mô nhân khâir hộ gia đình nông nghiệp thuộc diện DDGT
(xem bảng 1.1 phục lục 4)
Số khẩu
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
KTL
|
Tổng
|
|
Số hộ
|
S.L
|
6
|
9
|
51
|
52
|
50
|
43
|
27
|
5
|
8
|
11
|
262
|
T.lệ (%)
|
2,29
|
3,44
|
19,47
|
19,85
|
19,08
|
16,41
|
10,31
|
1,91
|
3,05
|
4,19
|
100
|
|
Quy mô hộ
trung bình: 5,76 người/hộ
|
- Không ít lao động có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của chính
quyền phường Trường Chinh, thiếu tích cực trong việc tự tạo việc làm, chuyển
đổi việc làm
Bảng 2.20: mức độ quan tâm thông tin lao động-việc làm của lao động nông
nghiệp thuộc diện DDGT (Xem bảng 1.10 phụ lục 4)
|
Số lượng
(người)
|
T.lệ (%)
|
1. Thường
xuyên theo dõi
|
46
|
17,56
|
2. Thỉnh
thoảng theo dõi
|
168
|
64,12
|
3. Không quan
tâm
|
35
|
13,36
|
4. Không trả
lời
|
13
|
4,96
|
Tổng
|
262
|
100
|
Sau giải tỏa, không ít lao động có tâm lý ỷ lại, trông chờ sự hỗ trợ của
chính quyền phường Trường Chinh về vấn đề việc làm. Một số hộ nông dân khi nhận
đươc tiền đền bù giải tỏa và tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp không để dành
vốn và thời gian cho tổ chức việc làm, đi học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp mà
tập trụng phần lớn tiền bạc chi tiêu cho xây dựng nhà cửa, mua sắm thiết bị gia
đình và tiêu dùng cá nhân. Thậm chí có những hộ trong thời gian chờ bố trí đất
tái định cư đã tiêu hết số tiền mà được đền bù, bồi thường thiệt hại và hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp. Qua khảo sát về mức độ ưu tiên sử dụng số tiền đền bù,
giải tỏa, tái định cư và tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho các khoản chi
tiêu sau giải tỏa cho thấy: Sau khi đã ưu tiên chi tiêu cho xây dựng, sửa chữa
nhà cửa và mua sắm đồ dùng trong gia đình, các hộ gia đinh nông nghiệp mới ưu
tiên chi tiêu cho mục đích học nghề, tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm. Điều
này có thê thấy qua kết quả khảo sát sau:
Bảng 2.21: Mức độ ưu tiên cho các khoản chi tiêu sau giải tỏa của hộ nông
nghiệp (xem bảng 1.5. phụ lục 4).
* Nhóm nguyên nhân khác:
- Thị trường lao động còn sơ khai, hệ thống dịch vụ việc làm phát triển
còn tự phát.
- Mạng lưới dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu.
- Lao động nhập cư gia tăng
Tốc độ ĐTH cao như hiện nay, có thể kéo theo sự gia tăng đột biến về quy
mô dân số và lao động nhập cư vào Phường Trường Chinh. Nếu trong quá trình quy
hoạch phát triển và quản lý đô thị, Phường Trường Chinh không tính đến sẽ có
nguy cơ đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế-xã hội và môi trường nghiêm trọng như
nạn nhà đất đắt đỏ, ô nhiễm môi trường, nhiễm bẩn không khí, …đặc biệt là áp
lực phải giải quyết việc làm cho người lao động ngày càng lớn.
Chương
3
NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP THUỘC DIỆN DI DỜI GIẢI TOẢ TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ
THỊ HOÁ PHƯỜNG TRƯỜNG CHINH
3.1. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM GIẢI
QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP THUỘC DIỆN DDGT Ở PHƯỜNG TRƯỜNG CHINH ĐẾN 2015
3.1.1. Mục tiêu
3.1.1.1. Dự báo về nhu cầu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
thuộc diện DDGT ở Phường Trường Chinh đến 2015
Để tổ chức thực hiện phương hướng xây dựng phường Trường Chinh một trong
những đô thị lớn của Thành phố, là địa bàn giữ vị thế chiến lược quan trong về
quốc phong, an ninh của của toàn Thành phố, đặc biệt nhấn mạnh và việc thực
hiện tốt chương trình được coi là khâu đột phá tạo động lực phát triển kinh
tế-xã hội, đẩy nhanh quá trình CNH,HĐH phường Trường Chinh. Nhiệm vụ chủ yếu
nhất của chương trình là rà soát và điều chỉnh quy hoạch kinh tế-xã hội, quy
hoạch không gian đô thị, quy hoạch ngành đến năm 2015.
Để đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH từ nay đến năm 2020
phường Trường Chinh sẽ tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị phục vụ
sinh hoạt và sản xuất. Trước mắt đến năm 2020 xác công trình có tầm quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của phường Trường Chinh sẽ được sớm đầu tư
xây dựng
Như vậy, theo quy hoạch không gian đô thị thì từ nay đến năm 2015, tổng diện tích đất nông nghiệp diện thu hồi,
chuyển đổi mục đích sử dụng lên đến 4-5 héc ta. Theo đó, đất nông nghiệp ngày càng cao
thu hẹp, hàng ngàn hộ nông dân phải thực hiện DDGT, ảnh hưởng đến việc làm của
đối tượng này vẫn còn tiếp diễn từ 10 đến 15 năm nữa. Sức ép phải giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT sẽ gia tăng cùng với tố độ
ĐTH. Trên cơ sở khảo sát sơ bộ về lao động-việc làm của các hộ nông dân thuộc
diện DDGT ở các vùng quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp từ nay đến 2015. Theo dự
kiến phường Trường Chinh thì:
- Số lao động nông nghiệp có 100% diện tích đất sản bị thu hồi có nhu cầu
chuyển đổi nghề nghiệp là: 2.000-3.000 lao
động/năm.
- Nhu cầu đào tạo nghề miễn phí tại các cơ sở dạy nghề là 4.00-5.00 lao động/năm.
- Số hộ nông nghiệp thuộc diện DDGT có nhu cầu vay vốn để chuyển đổi
ngành nghề, tự tạo việc làm từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm là 2.000-3.000 hộ.
Với số lượng lao động lớn và chất lượng lao động nông nghiệp thuộc diện
DDGT thấp như hiện nay sẽ là bài toán hết sức nan giải cho giải quyết việc làm
ở Phường Trường Chinh. Để giải quyết bài toán này góp phần giảm áp lực về vấn
đề việc làm và đáp yêu cầu về số lượng, chất lượng ngày càng cao theo xu hướng
CNH, HĐH đòi hỏi chính quyền, đoàn thể, cộng đồng và bản thân người lao động
phải nỗ lực thực hiện nhiều
biện pháp hướng tới mục tiêu chung là phải đảm bảo cho mọi người dân trong vùng
thu hồi đất sản xuất, DDGT có việc làm, có thu nhập ổn định và có cuộc sống tốt
hơn.
3.1.1.2. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát về giải quyết việc làm giai đoạn 2009-2015 ở Phường Trường Chinh là chuyển dịch cơ cấu
lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo việc làm ổn định cho
người lao động, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động,
hướng đến mọi cư dân của phường Trường Chinh trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động đều có cơ hội tìm được việc làm ổn định.
Căn cứ vào dự báo nhu cầu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
thuộc diện DDGT và mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn
phường Trường Chinh, mục tiêu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
thuộc diện DDGT ở phường đến 2015 là: Đảm
bảo cho mọi người dân thuộc diện thu hồi đất sản xuất, DDGT có việc làm, có thu
nhập ổn định và có cuộc sống tốt hởn trước, góp phần làm giảm áp lực phải giải
quyết việc làm và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của phường Trường Chinh.
3.1.2. Quan điểm định hướng giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT ở Phường Trường Chinh
3.1.2.1. Lao động thuộc diện DDGT phải thực sự được coi là một trong
những nguồn lực quan trọng cho CNH, HĐH.
ĐTH tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội,
trong đó vấn đề việc làm của lao động DDGT là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp và mạnh mẽ
nhất. Tốc độ DDGT càng nhanh thì mức độ tác động đến việc làm của quy mô lao
động thuộc diện DDGT ngày càng lớn. Bởi vậy, đây là một trong những nguồn lực
hết sức quan trọng có vai trò to lớn đối với công cuộc CNH, HĐH. Nhận thức đúng đắn quan điểm trên và luôn
quán triệt sâu sắc “Con người và nguồn
nhân lực là yếu tố quyết định cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH,
HĐH” [16, tr.201], Đảng bộ, chính quyền và toàn thể các cấp ở Phường Trường
Chinh đã quán triểt để vận dụng trong thực tiễn. Điều này được thể hiện một
cách nhất quán và đậm nét trong các chủ trương, chính sách, các biện pháp đẩy
nhanh ĐTH, phát triển kinh tế-xã hội ở mọi cấp, ngành, mọi tổ chức kinh tế-xã
hội cũng như từng cá nhân người lao động ở phường Trường Chinh.
Tuy nhiên, trong quá trình ĐTH, QHCT đô thị có những lúc, những nơi, có
những cơ sở chú trọng nhiều đến yếu tổ vật chất kỹ thuật mà ít chú trọng đến
yếu tốt con người, xã hội. Vì vậy, ở hầu hết các dự án DDGT, TĐC ở Phường
Trường Chinh thiếu quan tâm đúng mức đến các vấn đề xã hội, các chính sách đưa
ra chủ yếu nhằm mục đích giải quyết cho nhanh các vấn đề về đất đai, giải phóng
mặt bằng, kiến trúc theo phương châm đổi đất lấy công trình hơn là hướng vào
tạo cơ hội việc làm ổn định và nâng cao đời sống của người dân TĐC. Với cánh
nghĩ, cách làm như vậy đã làm cho không ít những lao động thuộc diện DDGT nói
chung, lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT nói riêng bị mất việc làm và gặp
không ít khó khăn để có được việc làm sau giải toả.
Do đó, trong điều kiện hiện nay ở phường Trường Chinh, muốn giải quyết
tốt vấn đề việc làm cần phải nhận thức đúng đắn và vận dụng triệt để quan điểm
này vào thực tiễn trong từng bước đi và xuyên suốt quá trình CNH, ĐTH phường
Trường Chinh. Có như vậy mới phát huy được nhân tố con người, giải phóng tiềm
năng lao động, tập trung được mọi nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế-xã hội đô thị.
3.1.2.2. Giải quyết việc làm là trách nhiệm của toàn xã hội
Sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức từ chỗ quan niệm rằng chỉ là việc
trong biên chế Nhà nước mới coi là việc làm, song quan niệm mọi hoạt động tạo
ra thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm đang mở đường
cho toàn xã hội tham gia giải quyết việc làm. Đây là quan điểm tiến bộ vượt bậc
và hoàn toàn phù hợp với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay. Điều này thể hiện ở những quan điểm sau:
+ Thứ nhất, tránh được tâm lý
coi trọng việc làm trong khu vực kinh tế nhà nước trong khi những việc làm ở
khu vực khác thì không được coi trọng. Đồng thời, cũng khắc phục được tình
trạng phân việt đối xử trong quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước với khu vực
kinh tế ngoài nhà nước. Từ đó, khơi dậy được động lực, giải phong triệt để tiềm
năng lao động.
+ Thứ hai, sự mở rộng quan niệm
về việc làm sẽ khuyến khích việc làm ở các khu vực ngoài nhà nước tăng trưởng
nhanh hơn khu vực nhà nước, đồng thời cũng mở rộng phạm vi cho việc tự do di
chuyển lao động, phân bố và điều chỉnh cơ cấu lao động linh hoạt hơn theo tín
hiệu thị trường lao động, khắc phục được tình trạng mất cân đối về cơ cấu lao
động theo ngành, vùng lãnh thổ. Mặt khác, cũng giải phóng cho người lao động
khỏi vị cột chặt vào biên chế nhà nước, luôn thụ động và mất đi tính độc lập
sáng tạo.
+ Thứ ba, chủ yếu tự tạo việc
làm của người lao động được chú trọng nhiều hơn. Người lao động tự chịu trách
nhiệm về việc làm, cuộc sống của chính bản than mình và có quyền tự quyết về
việc làm, chủ động phát huy tối đa năng lực sang tạo, tính năng động xã hội để
tự tạo việc làm, tránh tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào nhà nước.
+ Thứ tư, cho phép Nhà nước xác
định rõ rừng phạm vi trách nhiệm của mình là tạo điều kiện, môi trường kinh
tế-xã hội thuận lợi, điều tiết thị trường lao động, tức là giúp cho người lao
động có được “cái cần câu việc làm”
từ đó các chính sách giải quyết việc làm được hoạch định dựa trên những cơ sở
vững chắc hơn.
+ Thứ năm, xuất phát từ quan
niệm việc làm là một bộ phạm trù tổng hợp lien kết các quá trình kinh tế-xã hội
nên các hình thức, biện pháp và các nguồn lực huy động cho giải quyết việc làm
cũng được phong phú và đa dạng hơn.
+ Thứ sáu, giải quyết việc làm
cho người lao động thuộc diện DDGT ở Phường Trường Chinh không chỉ đơn thuần là
vấn đề kinh tế mà còn mang đậm vấn đề xã hội sâu sắc.
Những nhận thức về quan niệm việc làm trên đây đã đặt ra yêu cầu phải có
sự tham gia tích cực của toàn xã hội để giải quyết việc làm, có như vậy vấn đề
việc làm mới được giải quyết một cách toàn diện và có hiệu quả.
Ở Phường Trường Chinh trong nhiều năm qua, chính quyền các cấp, các tổ
chức kinh tế-xã hội, các thành phần kinh tế và cá nhân từng người lao động đã
quán triệt sâu sắc ứu điểm này, phát huy được tinh thần trách nhiệm của mình
trong việc giải quyết việc làm, đặc biệt chú trọng và tập trung khuyến khích
người lao động tự tạo việc làm.
Điều này đã có tác động tích cực đến nhận thức cũng như quá trình tổ chức
thực hiện các giải pháp giải quyết vấn đề việc làm cho lao động thuộc diện DDGT
của chính quyền các cấp các tổ chức kinh tế-xã hội, cá nhân người lao động ở Phường
Trường Chinh. Nhờ đó từng bước hạn chế được tình trạng thất nghiệp, thiếu việc
làm trong cộng đồng nông dân thuộc diện DDGT, góp phần ổn định và phát triển
kinh tế-xã hội phường Trường Chinh. Mặc dù vậy, trong thực tế giải quyết việc
làm cho người lao động thuộc diện DDGT ở phường Trường Chinh cũng có không ít
những tổ chức, cá nhân thể hiện trách nhiệm của mình đối với giải quyết vấn đề
này còn rất hạn chế, mờ nhạt, thiếu chủ động, tích cực. Nhiều người lao động
thiếu ý chí vươn lên, coi thường những việc làm có thu nhập thấp và còn thụ
động, ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ, bao cấp về việc làm của Nhà nước như
trước đây. Từ đó, sự đa dạng hoá các hình thức, biện pháp cũng như việc huy
động các nguồn lực cho giải quyết việc làm cũng hạn chế.
Do vậy, để đảm bảo giải phóng được tiềm năng lao động, phát huy và khai
thác tối đa các nguồn lực cho công cuộc CNH, ĐTH thì cần có những giải pháp
thiết thực làm cho mọi tổ chức, cá nhân nhận thức một cách sâu sắc và đúng đắn
trách nhiệm của mình đối với việc tham gia giải quyết việc làm.
3.1.2.3. Giải quyết việc làm trong quá trình ĐTH phải đảm bảo thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, ĐTH
ĐTH găn liền CNH là quá trình phát triển tất yếu khách quan của các đô
thị hiện nay trên thế giới. Trong quá trình đó, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ
cấu lao động phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
ĐTH là vấn đề cốt lõi, có tính chất gốc rễ để khai thác tối đa và sử dụng có
hiệu quả nguồn nhân lực phục vụ cho CNH, ĐTH. Như vậy, thực chất của các chính
sách, giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình CNH, ĐTH là thúc đẩy chuyển
dịch có cấu lao động phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các
hướng sau:
+ Giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động phi nông
nghiệp.
+ Tăng cầu lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, giảm cầu lao
động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật thấp.
+ Tăng tỷ trọng lao động ở khu vực đô thị, giảm tỷ trọng lao động ở khu
vực nông thôn.
+ Tăng việc làm có năng suất lao động cao, tạo ra giá trị xã hội lớn,
giảm việc làm có năng suất và tạo ra giá trị xã hội thấp.
+ Gia tăng quy mô và tốc độ tự do dịch chuyển lao động giữa các ngành,
giữa các khu vực kinh tế, giữa nông thôn-thành thị, giữa các thành phần kinh
tế, giữa các vùng kinh tế lãnh thổ.
Trên đây là những xu hướng khác quan phản ánh sự phát triển của đô thị
trong thời kỳ ĐTH. Tốc độ ĐTH càng nhanh thì các xu hướng đó diễn ra càng mạnh
mẽ về quy mô và tốc độ, đồng thời cũng đặt ra càng nhiều vấn đề kinh tế-xã hội
cần quan tâm giải quyết mà một trong những vấn đề cơ bản, quan trọng và phức
tạp hang đầu là giải quyết việc làm cho người lao động.
Qua phân tích trên cho thấy, để giải quyết việc làm có hiệu quả, tạo được
động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế phường Trường Chinh thì
trong thời gian tới phường cần phải hướng mục tiêu giải quyết việc làm vào việc
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, ĐTH. Để đảm bảo đạt được mục tiêu này trong bối cảnh
ĐTH như hiện nay, trước hết và cơ bản nhất Phường Trường Chinh cần phải đẩy
mạnh hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT đặc biệt
là những lao động trẻ có nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp.
3.1.2.4. Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT
là điều kiện kiên quyết đảm bảo cho người dân có cuộc sống tốt hơn so với trước
giải toả
Cần khẳng định rằng ĐTH ở Phường Trường Chinh chỉ đạt được ý nghĩa của nó
khi mà mọi người dân ngày càng có cuộc sống tốt hơn, đặc biệt là những đối
tượng thuộc diện DDGT những người trực tiếp tham gia và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
nhất về việc làm của quá trình ĐTH.
Do nhóm dân cư thuộc diện DDGT rất đa dạng trên nhiều phương diện như
nhân khẩu, mức sống, việc làm, văn hóa, lối sống…nên hình thức, tính chất, mức
độ ảnh hưởng của ĐTH đến cuộc sống của họ cũng đa dạng và rất khác nhau. Nếu
chỉ xét ở gốc độ lao động-việc làm thì nhóm dân cư là công nhân, viên chức nhà
nước ít ảnh hưởng nhất, trong khi đó việc làm của lao động nông dân lại chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Bởi vậy, đối với họ việc thực hiện DDGT không chỉ là sự
thay đổi về nơi cư trú, về khả năng tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội mà cả
sự thay đổi về điều kiện làm việc, kế sinh nhai.
Vì vậy, trong quá trình ĐTH ở nước ta nói chung vào ở Phường Trường Chinh
nói riêng cần phải xác định một cách nhất quán rằng giải quyết việc làm cho lao
động nông nghiệp thuộc diện DDGT là nhiệm vụ ưu tiên hang đầu nhằm đảm bảo cho
mọi người dân có cuộc sống tốt hơn so với trước giải tỏa.
Trên cơ sở thống nhất nhận thức về những quan điểm nói trên và để vận
dụng vào điều kiện cụ thể ở Phường Trường Chinh trong thời kỳ đẩy nhanh CNH,
ĐTH hiện nay phương phương hướng giải
quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT từ nay đến năm
2010 được xác định như sau:
Môt là, đẩy mạnh việc triển
khai thực hiệ các chương trình, kế hoạch dự án phát triển kinh tế-xã hội, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực tạo nhiều việc làm, đặc biệt là tạo việc làm
vùng giải tỏa.
Hai là, thực hiện tốt công tác
quy hoạch DDGT và hoàn thiện các chính sách tái định cư nhằm giải quyết những
ảnh hưởng của ĐTH đến đời sống nhân dân sau giải tỏa.
Ba là, tăng cường các hoạt động
hỗ trợ trực tiếp cho người lao động nông dân như hỗ trợ tín dụng, thuế, hỗ trợ
đào tạo nghề và dịch vụ việc làm nhằm khuyến khích lao động vùng giải tỏa tự
tạo việc làm thông qua các hoạt động sản xuất nhỏ, hoạt động dịch vụ ở khu vực
kinh tế chính thức. Lồng ghép các hoạt động hỗ trợ trực tiếp về việc làm với
các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người lao động về
vấn đề việc làm.
Bốn là, củng cố và nâng cao
chất lượng mạng lưới dạy nghề đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực cho CNH, ĐTH.
Năm là, củng cố và nâng cao
chất lượng các hoạt động dịch vụ của thị trường lao động như điều tra, thu
thập, xử lý và cung cấp thông tin thị trường lao động tại các trung tâm giới
thiệu việc làm, tăng cường tư vấn và cung ứng các dịch vụ việc làm theo hợp
đồng gồm: cung ứng lao động, tổ chức tuyển dụng, trao đổi thông tin thị trường
lao động, hỗ trợ dịch vụ, việc làm cho người lao động…
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP THUỘC DIỆN DDGT
3.2.1 Nâng cao chất lượng công tác
quy hoạch đô thị và triển khai thực hiện các dự án DDGT, TĐC
Quy hoạch đô thị làm thay đổi không chỉ không gian vật kiến trúc đô thị
mà còn làm thay đổi không gian đời sống xã hội như nơi ở, môi trường sống, điều
kiện đi lại, sinh hoạt, điều kiện làm việc, văn hóa, lối sống v.v… Do đó, nâng
cao chất lượng công tác quy hoạch đô thị sẽ hạn chế và chủ động kiểm soát, giải
quyết tốt những vấn đề xã hội nảy sinh, tạo điều kiện và môi trường xã hội
thuận lợi cho người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống và tổ chức việc làm sau
TĐC. Để nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đô thị và triển khai thực hiện
các dự án DDGT, TĐC cần tập trung vào những nội dung sau đây:
Thứ nhất, chú trọng hơn nữa và
nghiêm chỉnh thực hiện luận chứng về mặt xã hội trong các dự án DDGT, TĐC.
Thứ hai, phải cung cấp thông tin
đầy đủ, rõ rang và trung thực cho người dân trước khi thực hiện DDGT để học
chuẩn bị tâm thế vững vàng đối diện và chủ động giải quyết những vấn đề nảy
sinh.
Thứ ba, quá trình triển khai thực
hiện việc DDGT phải được tổ chức theo một quy trình hợp lý từ các khâu thông
báo, kiểm định, đền bù, di dời, giải tỏa cho đến bố trí tái định cư và ổn định
cuộc sống.
Thứ tư, trong quy hoạch nên chú
trọng đến đặc điểm nghề nghiệp của từng nhóm dân cư khi bố trí tái định cư.
3.2.2. Không ngừng hoàn thiện hệ
thống chính sách tái định cư
Hệ thống chính sách tại định cư cần phải triệt để tuân thủ quan điểm tạo
mọi điều kiện cho người dân có được cuộc sống tốt hơn so với trước giải tỏa.
Vận dụng quan điểm này vào thực tế ban hành chính sách và tổ chức thực hiện
chính sách TĐC ở Phường Trường Chinh. Trong thời gian tới Phường Trường Chinh
cần tập trung vào những nội dung sau:
Thứ nhất, xác định đúng mức đền bù
và bồi thường thiệt hại cho người dân khi thực hiện DDGT.
Thứ hai, tiếp tục ban hành bổ sung
và nghiêm chỉnh tổ chức thực hiện các chính sách xã hội sau TĐC, đặc biệt là
chính sách hỗ chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm.
Ngoài những chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm như hiện tại, để giải
quyết việc làm cho người lao động thuộc diện DDGT nói chung và lao động nông
nghiệp thuộc diện DDGT nói riêng có hiệu quả, đã đến lúc chính quyền phường
Trường Chinh cần phải ban hành bổ sung và tổ chức thực hiện những chính sách hỗ
trợ chuyển đổi nghề nghiệp thứcự toàn diện cho lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT.
3.2.3. Tăng cường các hoạt động hỗ
trợ trực tiếp nhằm khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, chuyển đổi nghề
nghiệp và tìm kiếm việc làm
Trong điều kiện như hiện nay thì giải pháp hỗ trợ trực tiếp được coi là cú
hích rất quan trọng tạo đà cho người lao động năng động hơn trong việ tự tạo việc
làm, khôi phục thu nhập và ổn định cuộc sống sau giải tỏa. Ngoài việc tiếp tục
thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ TĐC hiện có, các hoạt động hỗ trợ về việc
làm cho người lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT cần tập trung vào các biện
pháp sau:
- Hỗ trợ tín dụng:
+ ưu tiên cho những lao động nông dân thuộc diện DDGT vay vốn từ các nguồn
vốn khác với điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn và có sự hướng dẫn sử dụng
vốn một cách có hiệu quả.
+ Tiếp tục triển khai hoạt động cho vay vốn từ quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ
quốc gia giải quyết việc làm để hỗ trợ cho những người thất nghiệp, thiếu việc
làm tự tạo việc làm, hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình
nhằm tạo việc làm mới cho người lao động.
+ Ban hành cơ chế, chính sách và có biện pháp hỗ trợ tạo điều kiện cho các
tổ chức đoàn thể cơ sở vùng giải tỏa như hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh
niên,.đứng ra thành lập quỹ tín dụng quay vòng vốn phát triển kinh tế hộ gia đình.
Qua đó, quỹ này sẽ huy động các nguồn vốn từ các hội viên, đoàn viên để cho các
hộ nông dân diện DDGT gặp khó khăn đời sống do không có việc làm được vay vốn có
thời hạn với lãi suất ưu đãi.
+ Rà soát và cải tiến các thủ tục, cơ chế cho vay, theo hướng đơn giản hóa
tạo điều kiện cho người lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT đễ dàng tiếp cận đươc
các nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm.
+ Thực hiện miễn giảm tiền thuê đất, thuế nông nghiệp, thuế sản xuất kinh
doanh có thời hạn cho những người lao động nông nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận
lợi hơn trong việc tự tạo việc làm sau giải tỏa.
- Hỗ trợ đào tạo nghề:
Mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế hỗ trợ đào tạo nghề cho đối tượng này do
ngân sách địa phương đài thọ. Ngoài việc tiếp tục thực hiện chính sách đào tạo nghề
miễn phí và hỗ trợ tiền ăn cho những học viên là người lao động nông nghiệp thuộc
diện DDGT tại một số cơ sở dạy nghề như hiện nay, phường Trường Chinh cần mạnh
dạn hỗ trợ kinh phí, giao chỉ tiêu đào tạo nghề miễn phí và hỗ trợ tiền ăn cho
tất cả cơ sở dạy nghề do địa phương quản lý, đặc biệt là đào tạo nghề tạo chổ gắn
liền với vận động tiếp nhận lao động vào làm việc tại chổ ở các doanh nghiệp, các
khu công nghiệp được giao đất vùng giải tỏa.
- Hỗ trợ khác:
+ Thực hiện lồng ghép các họat động hỗ trợ trực tiếp về việc làm cho người
lao động thuộc diện DDGT như trên với các họat động của chương trình xói đói,
giảm nghèo, các chương trình phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương nhằm
huy động được nhiều nguồn lực, tăng cường hỗ trợ về đất sản xuất, hỗ trợ về nhà
ở, điện nước sinh hoạt, giáo dục, y tế tạo điều kiện cho người lao động nông
dân nghèo sớm ổ định cuộc sống và có được việc làm sau giải tỏa.
+ Các hội đoàn thể, đặc biệt là hội nông dân phối hợp với các trung tâm
khuyến nông, khuyến ngư ở các địa phương vùng giải tỏa trong phạm vi hoạt động
của mình đứng ra thành lập các tổ hội nghề nghiệp, tham gia, vận động, giúp đỡ
các hộ nông dân diện DDGT gặp khó khăn về việc làm và đời sống nhanh chóng ổn định
cuộc sống, đồng thời hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao kỹ thuật, kinh nghiệm
chuyển đổi nghề, dạy nghề ngắn hạn. Tăng cường họat động giám sát việc thực hiện
các dự án DDGT tái định cư ở những vùng có nông dân sinh sống. Đồng thời các cấp,
các ngành, hội đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức về dân số kế hoạch hóa gia đình, về định hướng nghề nghiệp cho những lao động
nông nghiệp thuộc diện DDGT có ý thức vươn lên thoat nghèo. Nhân rộng các mô hình
cá nhân tự tạo việc làm cho bản thân và cho người khác, những doanh nghiệp điển
hình về làm ăn hiệu quả và tham gia đào tạo nghề, tiếp nhận lao động thuộc diện
DDGT vào làm việc tại chỗ.
3.2.4. Phát triển kinh tế tạo mở
việc làm
Trong khi đó áp lực giải quyết việc làm ngày càng lớn do số lượng lao động
dư dôi, lao động nhập cư từ các tỉnh lân cận dưới tác động của ĐTH gia tăng
nhanh chống, nhất là lao động dư dôi xuất thân từ nông nghiệp. Do đó, để tạo mở
nhiều việc làm, góp phần giải quyết việc làm thúc đẩu nhanh tốc độ chuyển dịch
cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, ĐTH
trong thời gian tới phường Trường Chinh cần phát triển kinh tế theo các hướng
sau:
- Về phát triển công nghiệp:
Một là, tập trung đầu tư phát
triển cho các ngành công nghiệp mũi nhọn có tính đột phá nhằm tạo động lực phát
triển cho các ngành kinh tế khác.
Hai là, chú trọng phát triển
công nghiệp phụ trợ, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng ít vốn, nhiều
lao động và dễ đào tạo, nhất là đào tạo nghề ngắn hạn như: đan lát, dệt, thuê …
Ba là, đẩy mạnh phát triển các
khu công nghiệp tập trung và các cụm công nghiệp, tạo việc làm theo phương châm
phát triển các khu công nghiệp gắn liền với giải quyết việc làm tại chỗ, nhằm
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động cho
các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp mũi nhọn.
Trên cơ sở xác định nhu cầu phát triển, phường Trường Chinh nên quy hoạch
quỹ đất dự phòng thêm cho các khu công nghiệp, phân bố các khu công nghiệp tập
trung đảm bảo khai thác lợi thế về quỹ đất, nguồn cung ứng nguyên liệu và lao động,
đặc biệt chú trọng việc kết hợp phát triển các khu công nghiệp với QHCT đô thị,
hạn chế tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường và giải quyết vấn đề nhà ở cho
công nhân.
Song song với xây dựng có sở hạ tầng các khu công nghiệp là đẩy mạnh các
hoạt động kêu gọi, hỗ trợ đầu tư, rà soát bổ sung và hoàn chỉnh các cơ chế chính
sách ưu đãi khuyến khích đầu tư, khuyến khích đào tạo và sử dụng lao động tại địa
phương nhằm lấp đầy các khu công nghiệp góp phần giải quyết việc làm tại chỗ.
- Về phát triển thương mại-dịch vụ:
Trong nhiều năm qua các ngành thương mại, dịch vụ của phường Trường Chinh
tuy có tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên so với tìêm năng và lợi thế của phường
Trường Chinh thì hoạt động thương mại-dịch vụ phát triển chưa lớn, quy mô còn
nhỏ, còn hạn chế. Có thể thấy, những đóng góp cho sự phát triển thương mại-dịch
vụ trong những năm gầy đây chủ yếu là các hoạt động buôn bán nhỏ hoặc các dịch
vụ có hàm lượng khoa học thấp, đóng góp giá trị không đáng kể. Lực lượng lao động
tham gia hoạt động bổ sung vào lĩnh vực này hàng năm phần lớn là những người có
trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc là lao động nông nghiệp thuộc
diện DDGT bị đặt trong tình thế phải chuyển đổi việc làm. Những loại hình công
việc được tạo ra chủ yếu là tạm thời và hướng vào phục vụ công cuộc QHCT đô thị
của phường Trường Chinh. Trong tương lai khi mà QHCT đô thị đi vào ổn định thì
chắc hẳn số việc làm tạm thời tạo rảtong lĩnh vực này sẽ giảm xuống. Do vậy,
nay từ bây giờ phường Trường Chinh cần có định hướng để điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu
lao động trong các ngành thương mại, dịch vụ theo hướng tăng cường lao động
trong các ngành thương mại dịch vụ cần trình độ chuyên môn kỹ thuật và giảm dần
tỷ trọng lao động trong các ngành nghề buôn bán nhỏ, dịch vụ giản đơn dưới các
hình thức buôn bán vỉa hè, buôn bán dạo… điều này có thể làm giảm số lượng việc
làm được tạo ra trong hiện tại phù hợp với đặc điểm lao động của những người không
có tay nghề như lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT như hiện nay, song đây là
một xu thế tất yếu cần phải chấp nhận trong quá trình ĐTH.
- Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn vùng giải tỏa theo hướng CNH, ĐTH
Để tạo việc làm thu hút lao động và chuyển dịch một bộ phận lao động dôi
dư diện DDGT, lao động nông nhàn sang hoạt động phi nông nghiệp góp phần hạn chế
các luồng di cư từ vùng nông thôn lân cận, thời gian tới Phường Trường Chinh cần
tăng cường đầu tư phát triển nông-lâm theo hướng chế biến và khai thác đi đôi với
phát triển và bảo vệ nguồn lợi lâm sản, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, ĐTH nông
nghiệp, nông thôn, cụ thể là:
+ Thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất
tập trung, chuyên canh hiện đại.
§
Phát triển hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng nông thôn theo hướng đồng bộ, bao gồm: Điện,
nước sạch, giao thông, thủy lợi, các cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế,…nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa đô thị và vùng nông
thôn, góp phần làm giảm “lực đẩy” di
dân vào khu vực khác đến.
§
Quy hoạch các khu TĐC nông dân gắn liền với quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp
tiến tới hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung chuyên canh trên cơ
sở tăng cường áp dụng khoa họch công nghệ cao vào sản xuất để tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang lao động cơ giới là phổ
biến.
§
Chuyển một phần diện tích đất nông nghiệp hiện có sang phục vụ sản xuất công
nghiệp, nhất là dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp và các cụm công
nghiệp tạo điều kiện cho việc bố trí các cơ sở sản xuất chế biến nông sản, lâm
sản đến nhằm tận dụng nguồn lao động nông thôn tại chỗ.
+ Đẩy mạnh phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tại khu vực nông
thôn nhằm chuyển dịch bộ phận lao động nông nhàn, lao động nông nghiệp dôi dư
diện DDGT sang hoạt động trong các ngành nghề phi nông nghiệp.
+ Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng
trồng trọt tăng tỷ trọng chăn nuôi.
Trong điều kiện quỹ đất nông nghiệp rất hạn chế lại nằm trong vùng có
thời tiết rất khắc nghiệt, năng suất thấp, điều kiện áp dùng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất khó khăn, tồn nhiều lao động do vậy phường Trường Chinh nên đẩy
mạnh phát triển chăn nuôi công nghiệp, hình thành khu giết mổ tập trung những
vật nuôi có khả năng tận dụng những lợi thế về tự nhiên, dễ dàng áp dụng khoa
học kỹ thuật phù hợp với nhu cầu thị trường mang lại giá trị kinh tế cao.
Thực hiện dồn điền đổi thửa, tích tụ, tập trung ruộng đất, tăng cường áp
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển nông nghiệp theo chiều sâu,
hình thành các vùng chuyên canh trồng các loại cây thực phẩm, rau màu, cây
cảnh, mang lại lợi ích kinh tế cao thay vì trồng cây lương thực năng suất thấp.
- Khuyến khích phát triển kinh tế
tư nhân, kinh tế hộ gia đình.
Phường Trường Chinh cần tạo
môi trường lành mạnh để khu vực kinh tế tư nhân phát triển thông qua các chính
sách thuế linh hoạt, đảm bảo cho mọi cơ sở kinh doanh đều bình đẳng với nhau
trong tất cả các phương tiện kinh doanh từ chính sách, pháp luật cho đến cơ hội
tiếp cận các nguồn lực kinh doanh. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy phát triển đa dạng
các loại hình kinh tế hộ gia đình nhất là các hộ gia đình có các cơ sở sản xuất
gia công biến sử dụng lao động thủ công không đòi hỏi máy móc thiết bị kỹ thuật
phức tạo sản xuất ngay tại nhà nhằm tự tạo việc làm, tự chuyển đổi việc làm cho
bản thân và cho người lao động khác thúc đầy chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng ĐTH từ bên trong.
3.2.5. Phát triển thị trường lao
động:
- Cải thiện chất lượng các dịch vụ
của thị trường lao động:
Đối với những lao động nông-ngư thuộc diện DDGT ở Phường Trường Chinh hiện
nay, một trong những vấn đề gây khó khăn cho họ khi tìm kiếm việc làm là khả năng
tiếp cận các dịch vụ thị trường lao động kém. Để tạo điều kiện cho họ hưởng thụ
các dịch vụ như thông tin về cung-cầu lao động, tư vấn, định hướng nghề nghiệp,…
trong những năm tới phường Trường Chinh cần:
+ Củng cố hoạt động các trung tâm dịch vụ việc làm, chú trọng hoạt động
thu nhập thông tin thị trường lao động như thông tin về lao động chưa có việc làm,
nhu cầu tìm việc làm, chỗ việc làm trống, thông tin xuất khẩu lao động, nhu cầu
học nghề, lao động mất việc và có nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp do DDGT,… Trên
cơ sở đó cung cấp thông tin, tư vấn, giới thiệu việc làm cho lao động nói chung
và lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT nói riêng.
- Xây dựng mạng lưới đào tạo nghề đáp
ứng yêu cầu của thị trường lao động:
Quá trình ĐTH diễn ra nhanh chóng, sự nghiệp CNH, HĐH không ngừng phát
triển, đòi hỏi nguồn nhân lực rất lớn, đặc biệt là nhân lực có trình độ kỹ thuật
và tay nghề cao. Song số lượng cũng như chất lượng lao động có nghề vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Hệ thống các cơ sở dạy nghề phát triển
nhanh những phân bố không đều, mất cân đối về quy mô đầu tư, ngành nghề đào tạo,
năng lực các cở sở dạy nghề trên địa bàn phường Trường Chinh còn yếu. Bên cạnh
đó, người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học nghề, có xu hướng
coi trọng bằng cấp ở các bậc học trung học, cao đẳng và đại học. Trong khi rất
nhiều người tốt nghiệp đại học trở lên khó tìm được việc làm phù hợp thì lao động
có nghề không đủ cung cấp cho thị trường lao động. Sự mất cân đối về nguồn nhân
lực trở nên bức xúc.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên và tạo điều kiện thuận lợi chuyển một
bộ phận lao động dôi dư diện DDGT xuất thân từ nông thôn đảm bảo nguồn nhân lực
có trình độ kỹ thuật, tay nghề cáo đáp ứng yêu cầu theo xu hướng CNH, HĐH ở Phường
Trường Chinh trong giai đoạn mới, từ nay đến năm 2010 hoạt động dạy nghề của Phường
Trường Chinh cần thúc đẩy phá triển theo các hướng sau đây:
+ Dạy nghề phải bám sát các mục tiêu chiến lực phát triển kinh tê-xã hội,
góp phần giải quyết việc làm, tự tạo việc làm và giảm nghèo, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thị trường lao động. Chuyển hướng mạnh mẽ đào tạo từ định hướng
cung sang định hướng cầu của thị trường lao động, tạo cơ hội cho mọi người được
tham gia học nghề thường xuyên.
+ Hình thành và phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nhiều lĩnh vực, loại hình
và cấp độ với chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo thích hợp.
+ Mở rộng quy mô đối với đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo theo phương
châm chuẩn hóa, HĐH; xây dựng hệ thống trường chất lượng cao, tiếp cận trình độ
đào tạo khu vực và quốc tế.
+ Thực hiện xã hội hóa đào tạo, huy động mọi nguồn lực từ các chương trình
trình mục tiêu nâng cao năng lực các cơ sở dạy nghề, từ ngân sách địa phương,
tranh thủ đầu tư nước ngoài, viện trợ trong và ngoài nước.
+ Đẩy mạnh phân cấp quản lý, tăng cường quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo
nghề trên cơ sở kiểm soát nội dung, chất lượng đào tạo.
Để thực hiện các định hướng nêu trên, Phường Trường Chinh cần:
Một là: Tăng cường quản lý Nhà
nước về dạy nghề.
Hai là, tăng cường đầu tư nâng
cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy phù hợp với công nghệ hiện đại,
tiếp cận với thiết bị mà các cơ sở sản xuất đang sử dụng cho các cơ sở dạy nghề.
Ba là, nâng cao chất lượng đào
tạo.
Trong đào tạo phải lấy chất lượng làm trọng tâm, đặc biệt coi trọng kỹ năng
thực hành, giáo dục ý thức kỹ luật lao động, tác phong lao động theo kiểu công
nghiệp hiện đại.
Xây dựng khung chương trình và nội dung đào tạo phù hợp, có sự tham gia của
các cơ sở sản xuất thuộc các ngành nghề tương ứng, chương trình dạy nghề phải bố
trí thời gian thực hành phù hợp với từng cấp đào tạo.
Bốn là, xã hội hóa hoạt động
dạy nghề.
Xã hội hóa hoạt động dạy nghề là giải pháp quan trọng trong việc huy động
nguồn lực đáp ứng nhu cầu tạo nguồn nhân lực cho công cuộc CNH, ĐTH.
* Một số kiến nghị khi thực hiện các
dự án DDGT nhằm hỗ trợ cho hoạt động giải quyết việc làm:
- Đề nghị Ủy ban nhân dân phường Trường Chinh cho thành lập các tổ công tác
xã hội có chức năng khảo sát điều tra, thu nhập và xử lý thông tin nhằm nắm rõ
tình hình thực hiện DDGT cũng như nguyện vọng của nhân dân, đánh giá mức độ ảnh
hưởng và sự dự báo xu hướng biến đổi lao động-việc làm dưới tác động của việc
thực hiện DDGT. Từ đó, tham mưu và đề xuất chính sách đền bù, giải tỏa và hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp cho phù hợp với tình hình thực tế. Các tổ công tác này cũng
có nhiệm vụ cung cấp trung thực, đầy đủ các thông tin về quyền lợi và nghĩa vụ
của người dân khi được hỗ trợ học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp.
- Sở Xây dựng nên tổ chức các buổi công bố công khai quy hoạch chung, quy
hoạch chi tiết và toàn bộ những đồ án xây dựng cùng với kế hoạch phân kỳ đầu tư
tại các địa điểm có các dự án DDGT, TĐC sẽ triển khai thực hiện để người dân nắm
được những thông tin cần thiết giúp họ chủ động hơn trong việc tổ chức cuộc sống
và việc làm. Qua đó, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội cũng thuận lợi hơn
trong hoạt động giám sát của mình.
- Đề nghị nhanh chóng thành lập, ban hành quy chế và tổ chức hoạt động quỹ
chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động thuộc diện thu hồi
đất sản xuất, DDGT trên địa bàn phường Trường Chinh.
- Tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và cụ thể hóa những quy chế
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án DDGT, TĐC đối với hội đồng nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể. Tạo cơ chế và điều kiện thuận
lợi để người dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng cũng như tố cáo những cán bộ
nhũng nhiễu nhân dân.
- Mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng, các lớp tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ
và tăng cường giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ làm công tác
đền bù, giải tỏa. Đồng thời, cần có những quy định cụ thể hành chính đề xử lý
những trường hợp nhũng nhiễu nhân dân. Những trường hợp vượt quá phạm vi điều
chỉnh của những quy định hành chính có vi phạm pháp luật thì cần kiên quyết xử
lý.
- Đề nghị chính quyền và các tổ chức xã hội cấp cơ sở vùng giải tỏa trong
chương trình hoạt động của mình tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân
nhằm nâng cao nhận thức của người dân về dân số, kế hoạch hóa gia đình, tác
phong lao động, định hướng nghề nghiệp cũng như chấp hành nghiêm chỉnh các chủ
trương, chính sách của thành phổ về thực hiện DDG. Có thể thực hiện chế độ ưu đãi
hoặc khen thưởng đối với những hộ nhân dân thực hiện tốt chính sách DDGT. như được:
Ưu tiên bố trí đất tái định cư trước, giảm tiền hoặc gia tăng thời hạn nợ tiền
mua lại đất tái định cư…
KẾT LUẬN
ĐTH phán ánh xu thế phát triển tất yếu khách quan của các đô thị trong
quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội từ nông nghiệp-nông thôn
truyền thống sang công nghiệp-đô thị hiện đại. Trong quá trình đó, nó có tác
động mạnh mẽ và sâu sắc đến mọi phương diện của đời sống kinh tế-xã hội và luôn
bộc lộ tính hai mặt: Tích cực và tiêu cực. Do vậy, trong chúng luôn tồn tại
hàng loạt những mâu thuẫn nội tại làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế-xã hội phức
tạp. Tốc độ ĐTH càng nhanh thì đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đền cần quan tâm
giải quyết, mà một trong những vấn đề cơ bản quan trọng hàng đầu là giải quyết
việc làm cho người lao động.
Với cách tiếp cận vấn đè xuất phát từ việc phân tích, phân loại, đánh giá
những tác động của ĐTH đến việc làm trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực, trên cơ sở
những nhận thức về lý luận, phương pháp luận cơ bản của vấn đề việc làm, luận
văn đã đi sâu phân tích và làm sáng tỏ ý nghĩa của giải quyết việc làm trong
điều kiện ĐTH, đồng thời luận văn cũng tập trung chỉ ra những nhân tố cơ bản
ảnh hưởng đến giải quyết việc làm trong quá trình ĐTH nhằm làm cơ sở lý luận
cho việc xác định phương hướng tiếp cận vấn đề giải quyết việc làm ở phường
Trường Chinh trong thời kỳ đẩy nhanh ĐTH hiện nay.
Trong bối cảnh như vậy, lao động nông nghiệp thuộc diện thu hồi đất sản
xuất, DDGT với những đặc điểm nổi bật như: mức sống thấp, gia đình đông con,
không có tay nghề, trình độ văn hoám chuyên môn kỹ thuật thấp, khả năng thích
nghi và thiết lập các mối quan hệ làm ăn trong một môi trường đã có nhiều biến
đổi kém…là những người chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất về việc làm.
Sự chuyển dịch lao động theo hai xu hướng trên là phù hợp với quá trình
ĐTH, song nó cũng là phức tạp hơn vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp
thuộc diện DDGT ở Phường Trường Chinh. Để giải quyết vấn đề này, trong những
năm qua Phường Trường Chinh đã có nhiều nỗ lực đáng kể và đã đạt được một số
kết quả nhất định như cải thiện đáng kể chất lượng nguồn lao động, thúc đẩy thị
trường lao động phát triển, tạo môi trường thuận lợi và nhiều cơ hội việc làm
cho người lao động góp phần làm giảm áp lực về vấn đề việc làm cho một quy mô
dân số và lao động hội tụ ngày càng cao theo xu hướng ĐTH. Tuy nhiên, bên cạnh
đó do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà trong quá trình giải quyết
việc làm cho đối tượng này nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị ở Phường Trường Chinh đã nổi
lên một số hạn chế sau:
(1)Tỷ lệ lao động nông dân rơi vào tình trạng thất nghiệp sau giải tỏa
vẫn còn cao; (2) số lao động nông dân tìm được việc làm khi giải tỏa ít, chủ
yếu là việc làm tạm, điều kiện làm việc khó khăn; (3) số lao động thực sự chủ
động, tích tực tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm không nhiều; (4) số lao
động tham gia học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp còn ít, hầu hết là học nghề
ngắn hạn; (5) khả năng tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm hoặc chuyển đổi nghề
nghiệp còn nhiều hạn chế.
Từ hiện trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
thuộc diện DDGT, trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và định hướng
giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn phường Trường Chinh đến 2015, luận văn đã xác định mục tiêu, đưa ra phương
hướng và đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết vấn đề trên. Các giải
pháp đề xuất mà luận văn đề ra được xem như là những kiến giải quyết ban đầu
góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT
trong quá trình ĐTH ở Phường Trường Chinh.
Việc làm cho người lao động trong quá trình ĐTH nói chung và việc làm cho
lao động nông nghiệp thuộc diện DDGT nói riêng là vấn đề tuy đã được đề cập từ
rất lâu gắn liến với quá trình hình thành và phát triển của các đô thị, nhưng
đồng thời cũng là vấn đề hết sức mới mẽ đối với thị xã Kon Tum khi mà quá trình
ĐTH song hành với CNH ở tỉnh ta chỉ mới thực sự bắt đầu diễn ra mạnh mẽ hơn
mười năm trở lại đây. Hơn nữa, ĐTH là quá trình mang tính lịch sử, văn hóa,
kinh tế, xã hội liên quan đến rất nhiều mảng, vấn đề khác nhau nên giải quyết
việc làm cho người lao động trong quá trình ĐTH là vấn đề hết sức rộng lớn và
phức tạp.
Với khả năng còn nhiều hạn chế của người viết chắc hẳn luận văn khó trành
khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự cảm thông, chia sẽ và góp
ý chân thành của quý thầy, và các bạn!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét